Sunday, July 16, 2017

HỒI KÝ CHIẾN TRƯỜNG - PHI CÔNG QUAN SÁT L-19 và KHU TRỤC A-1 KLVNCH




Tranh Gucci/VNAFMAMN


HỒI KÝ CHIẾN TRƯỜNG
PHI CÔNG QUAN SÁT L-19 và KHU TRỤC A-1
KLVNCH




Thương nhớ ơn hiền thê vô vàn
Cơm áo cho chồng ra chinh chiến
Giữ đạo vợ hiền với con thơ
Mõi mòn lo âu ngày hội ngộ
Một chín tám mươi rộn tiếng người
Hưu về ghi lại chiến trường xưa


Lời Mở Đầu

Tác giả chân thành cám ơn quý đọc giả, thân hữu và chiến hữu đã ưu ái chọn đọc Hồi Ký Chiến Trường của một phi công L-19 và A-1 VNCH. Tập hồi ký gói trọn những bài viết ngắn, ghi lại những trận đánh hào hùng của chính tác giả hay cùng đồng đội qua những ngày tháng lịch sử của chiến tranh Việt Nam,  nhứt là những ngày cuối cùng cuộc chiến, là dấu móc thởi gian và không gian trên chiến trường. Hồi ký tức là ghi lại những gì tác giả nhìn thấy, nghe và làm, trải qua trong cuộc chiến, tức nói về mình, điều mà tác giả không thích, nhưng không sao tránh được. Hình ảnh và sơ đồ trận chiến làm rõ nghĩa bài viết. Mười năm rưỡi trong quân ngũ, hai năm huấn luyện để trở thành phi công ở Hoa Kỳ và hơn bảy năm rưỡi vào sanh ra tử, tác giả hầu như xem thường sinh mạng mình, chiến đấu liên tục trên hai loại phi cơ Quan sát L-19 và Khu trục cánh quạt A-1, với tổng số 4.300 giờ bay. Phi công VNCH được Cộng sản gọi là “Giặc lái”, đã gây cho địch khiếp đảm và nhiều thiệt hại to lớn trên chiến trường, đồng thời tiết kiệm xương máu và yểm trợ quân bạn cố thủ hay tiến chiếm mục tiêu trong nhiều trận chiến khốc liệt. Đọc giả sẽ tìm thấy cảm nghĩ chân tình từ đơn vị bạn dưới đất, phấn khởi và tự tin khi có không yểm, lo sợ và nhắn nhủ cho phi công khi phòng không địch bắn lên xối xả. Chính vì tình đồng đội giữa hai Binh chủng Không-Lục, Phi công VNCH thi hành nhiệm vụ “Bảo Quốc Trấn Không”, họ còn cố vượt qua những nguy hiểm của thời tiết, điạ thế hiểm trở, phòng không địch và đôi khi gần như vi phạm luật bay an phi để đến mục tiêu cho bằng được cũng vì nhu cầu khẩn thiết của chiến trường. Phi công có thể từ chối phi vụ vì lý do an phi mà đa phần là thời tiết. Chiến sĩ Không quân từ kỹ thuật đến phi hành phục vụ hăng say, chiến đấu dũng cảm ngày đêm, không phải vì bị khoá chân vào chiến cụ như địch thường dùng (!) Tập Hồi Ký Chiến Trường chia sẻ với đọc giả và thân hữu về sự chiến đấu hào hùng và hãnh diện của Chiến sĩ Không quân, với chiến hữu về những kỷ niệm vui buồn, sống chết của một thời sát cánh chiến đấu, và với Chiến sĩ Không quân đã bỏ mình cho Tổ quốc như nén hương lòng bất diệt. Trong phạm vi tập hồi ký, tác giả phải giới hạn những chi tiết mà đôi khi đọc giả cần tìm hiểu. Tác giả sẵn sàng đón nhận những ý kiến xây dựng.

Tác giả


Mục Lục

.   Bản đồ Nam Phần Việt Nam

Phần I
Quan Sát L-19  (1968 – 1970)

.   Phi Vụ Trinh Sát   
.   L-19 Bay Trong Bão Tố 
.   L-19 Yểm Trợ Trại LLĐB Dak Seang

Phần II
Khu Trục A-1  (1970 – 1975)

.   Nhớ về Hành Quân Toàn Thắng
.   Chiến Trường Quảng Trị trong Mùa Hè Đỏ Lửa với Phi Đoàn 518
.   Những Phi Vụ Skyraider:  
Phi Vụ Yểm Trợ Tiếp Cận
Phi Vụ Đêm    
Phi Vụ BOBS 
Phi Vụ Không FAC 
.   Khu Trục Yểm Trợ An Lộc trong Hè Đỏ Lửa .
.   SĐ3KQ Yểm Trợ Tái Chiếm Căn Cứ 82 và Đồn Rạch Bắp 
.   Phi Vụ Hành Quân Cuối Cùng 
.   Chyến Bay Định Mệnh (Phi Vụ Di Tản từ Tân Sơn Nhứt-Phú Quốc-Thái Lan)
.   Lời kết 
.   Bảng chú giải

Phần III
Anh Ngữ

.   The 518th Skyraider Squaron over Dong Ha in the Easter Offensive of 1972 
.   The Last Operation Mission        
.   BOBS Mission    
.   The Fate of My Flight (Leaving SouthVietnam)
.   Glossary







Phần I
Quan Sát L-19   (1968 – 1970)



L-19 (O-1, Bird Dog) là loại phi cơ quan sát nhỏ, gồm một máy Continental O-470-11, 6 cylinders, 213 mã lực, tốc độ bình phi 80 mph (mile per hour), tốc độ tối đa 130 mph, tốc độ rời phi đạo 55 mph. L-19 có thể lên cao 20.300 bộ ( The Golden Age of Aviation), tầm hoạt động tối đa là 530 miles. Sải cánh (chiều dài hai đầu cánh) là 36 bộ, phi cơ dài 25.9 bộ và cao 7.3 bộ. Chuyến bay đầu tiên vào ngày 14-12-1949. Tổng số lượng sản xuất là 3.431 chiếc.

Năm 1955, Không quân Pháp bàn giao hai phi đoàn L-19 cho Không quân Quốc Gia Việt Nam.  Không quân VNCH bành trướng ngành Quan sát lên đến 8 phi đoàn L-19, hai phi đoàn cho mỗi vùng chiến thuật. Phi cơ L-19 được dùng trong chiến trường miền Nam qua các phi vụ: trinh sát, xác định tọa độ mục tiêu, điều chỉnh pháo binh, trung gian vô tuyến, hộ tống đoàn quân xa, hướng dẫn phi cơ khu trục thả bom, yểm trợ tiếp cận cho quân bạn…

Thiếu Tá Lý Bửng chở vợ và 5 con trên L-19 và đáp an toàn trên Hàng Không Mẫu Hạm Midway ngày 29-4-1975.


Phi Vụ Trinh Sát  (1969)

Như chim sổ lồng! Tôi vừa hoàn tất phi vụ huấn luyện trên chiếc L-19 sau lần tập bắn hỏa tiễn khói để đánh dấu mục tiêu, và đáp sân ngắn ở phi trường Dục Mỹ, tỉnh Khánh Hòa với thầy Đ/úy Lý Bửng. Phi cơ ngừng lại không quá 500 bộ từ chỗ chạm bánh.  Như vậy, tôi sẽ bay hành quân nay mai trong phi vụ tới. Trong tuần lễ đầu, tôi bắt đầu bay phi vụ VR (Visual reconnaissance) trinh sát hướng Tây Nam phi trường Nha Trang mỗi ngày, còn gọi là mật khu Đồng Bò. Đây là phi vụ dễ dàng cho phi công mới ra hành quân. Sau mấy phi vụ trinh sát, không tìm thấy dấu vết gì ngoài đoàn voi bảy con, cách phi trường Nha Trang 8 dậm về hướng Tây. Tôi dành ra 15 phút cuối cùng của mỗi phi vụ VR để tìm đàn voi, và phải tìm cho được trước khi đáp. Đây là bài học quý giá đầu tiên về trinh sát. Vị trí được quan sát không di chuyển khi phi cơ quẹo với 35 độ cánh nghiêng, đó là tâm của cái nón lá nằm ngửa. Mục tiêu được nhìn rõ cao ở độ 1.000 bộ hay thấp hơn.

Sau hai tuần bay hành quân ở đơn vị, tôi được biệt phái Pleiku. Một lộ trình khá xa với nhiều núi non hiểm trở, phải mất gần ba giờ bay. Tôi chắc chắn được may mắn với thời tiết tốt trong chuyến bay nầy, không phải đối phó với tử thần cho phi vụ đầu và xa nhất trong vùng. Sau nầy, tôi được biết có phi công mất tích vì thời tiết xấu trên lộ trình nầy, mặc dầu anh có nhiều giờ bay. Có thể nói số tử vong vì thời tiết nhiều hơn số tử vong về hành quân ở Vùng II, nhiều núi non hiểm trở.

Bài học kế tiếp đó là lần biệt phái Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Tôi được lệnh cất cánh và quan sát cái mô của việt cộng trên quốc lộ gần Bảo Lộc. Sau khi lượn mấy vòng chung quanh cái mô làm bằng cành cây, tôi thấy một Việt cộng chạy vào bụi rậm giữa bãi cỏ, khi phi cơ bay qua khỏi đầu. Tôi vòng lại và bắn một hỏa tiễn khói ngay vào bụi rậm, khi hỏa tiễn khai hỏa thì hắn chạy vào khu rừng. Địch di chuyển khi phi cơ bay qua đầu, nhưng bất động trước đầu phi cơ, đây cũng là kinh nghiệm quý giá. Công việc kẻ tìm, người trốn luôn được khai thác giữa ta và địch, nhầm tạo kết quả tối đa cho mỗi bên. Địch ngụy trang khéo léo để tránh sự quan sát của ta và cũng đoán được vị trí bom đạn sẽ thả vào chỗ nào. Quan sát viên phi hành già dặn luôn tìm cho mình được câu trả lời khi đưa bom đạn vào vị trí mục tiêu một cách hiệu quả. Sau khi phi cơ quan sát có mặt trên vùng, khoảng một thời gian sau thì bom đạn đổ xuống mục tiêu. Công việc làm nầy không khác lạ đối với Việt cộng. Chúng chỉ cần một thời gian ngắn để rời mục tiêu vài trăm thước, hoặc bám sát vào quân bạn để tránh bom. Cho nên, quan sát viên kinh nghiệm đưa bom vào điểm tiên liệu, và dùng Minigun, đại bác 20 ly gần vào vị trí quân bạn, đây chỉ là kinh nghiệm cá nhân, trong khi mục tiêu thì đa dạng. Trong lần yểm trợ cho quân bạn trên sống núi chạy từ Đông sang Tây. Quân bạn bị chận đánh khi tiến về hướng Tây. Tôi sẽ có một phi tuần phản lực A-37 để yểm trợ quân bạn. Trong thời gian chờ đợi và quan sát, tôi bắn một hỏa tiễn khói ở sườn Nam với hy vọng địch không chọn hướng nầy để tránh bom. Sau 15 phút, tôi hướng dẫn phi tuần A-37 thả 2 trái bom trên sống núi, còn lại 6 trái 500 cân được rải đều ở sườn Bắc xa đến 200 mét, và dùng Minigun bắn sát vị trí quân bạn. Quân bạn tiến chiếm mục tiêu ngay sau đó, và ghi nhận nhiều dấu vết: thịt, máu, tóc, áo quần…dính vào thân cây, có lẽ đồng bọn mang đi nhiều xác chết. Việc nầy xảy ra ở phía Tây Phù Cát, tỉnh Bình Định. Xin mở ngoặc, việc xin một phi tuần khu trục để yểm trợ đôi khi không phải dễ, trong khi việc đưa bom đạn có hiệu quả và sự can thiệp không yểm kịp thời, quân bạn có thể chuyển bại thành thắng. Đóng ngoặc.

Cũng vì cái tính hăng say, đầy tin tưởng, không chịu thua Cộng quân, và luôn chủ động trên mục tiêu. Tôi đưa bom hơi gần vào quân bạn vì địch hay bám sát quân bạn để tránh bom, nhưng chưa có một ai phàn nàn, chỉ có một cố vấn Mỹ trong trận Dak Seang yêu cầu thả bom xa ra. Nếu có một quân bạn bị thương vì bom đạn, tôi không thể tránh khỏi bốn chữ thân bại, danh liệt.

Lần biệt phái thứ ba cho Phố núi, Pleiku, Căn cứ 92/CT (Chiến thuật), tháng Mười 1969. Tr/úy Độ và tôi cùng cấp bậc. Chúng tôi là những người độc thân, cuộc sống như hình với bóng, cùng làm, cùng ăn, cùng chơi… Mỗi chiều, chúng tôi đến Câu lạc bộ khang trang trong căn cứ để dùng cơm và thường gặp Tr/tá Đỗ Trang Phúc. Ông thường ngồi bàn số hai, dải bên trong và đối diện cửa ra vào. Hình ảnh khả kính về Ông vẫn ghi mãi trong tôi. Trong lần biệt phái nầy có ba chuyện được ghi nhận:

-Phi vụ trinh sát trong ngày được thực hiện vào chiều, nếu không có phi vụ hành quân. Thường thì thám sát mục tiêu được chỉ định, hay do phi hành đoàn chọn mục tiêu để lấy phi xuất, giờ bay, như bay dạo mát, nếu muốn nói. Riêng tôi, đây là phi vụ đi săn VC và lúc nào cũng bay ngoài 15 dậm cách Pleiku qua những vùng nghi ngờ có Cộng quân. Nếu phi cơ phải đáp khẩn cấp ở nơi đây, sinh mạng phi hành đoàn không mấy an toàn, và lúc nầy VC săn chúng tôi. Khi thám sát mục tiêu ở 30 cây số về phía Tây Nam Pleiku, một khu rừng già bạt ngàn với những cây cao từ 100 mét trở lên, tôi còn nhớ câu nói ngày nào từ sự lo ngại cho chính mình “Nếu phi cơ tắt máy, chỉ còn cách đáp trên ngọn cây”. Trong sự tình cờ và tò mò, tôi muốn thấy những gì ở dưới tàng cây, việc tìm một chỗ trống trên ngọn cây cũng đã khó vì cây dày đặc, tôi quẹo gắt với cánh nghiêng 45 độ vài vòng vì cây quá cao. Thật ngạc nhiên, ngoài sức tưởng tượng! Tôi thấy nhiều nhà lá phía dưới trong một vùng khá rộng, không nghĩ đây là nhà người thiểu số và tin tưởng các toán Biệt kích của ta đã dẫm chân qua vùng nầy, vì Pleiku có nhiều phi vụ nhảy toán. Xin mở ngoặc, sau đó tôi cho một phi công L-19 của Bộ binh Mỹ bay cùng tôi vào toạ độ nầy, anh thích thú khi khám phá nhiều nhà và xin dùng M-79 phóng lựu, nhưng tôi không dám vì sợ gây tai nạn cho phi cơ. Đóng ngoặc.

-Phi vụ hộ tống đoàn quân xa hơn 100 chiếc từ Kontum về Pleiku. Lộ trình được coi là an toàn trong thời gian nầy. Khi cái đuôi đoàn xe qua khỏi ranh giới Kontum thì cái đầu đoàn xe chỉ cách Pleiku khoảng 30 cây số. Tôi thấy rõ hai xe hàng 18 bánh của Mỹ chạy phía sau đoàn xe. Hai xe nầy tìm cách vượt lên, đôi khi chen vào đoàn xe, và cuối cùng vượt qua khỏi đoàn xe. Phi hành đoàn Quan sát ngạc nhiên khi thấy đoàn xe ngừng lại và mất liên lạc. Sau hơn 20 phút, đoàn xe bắt đầu chạy lại, trưởng đoàn liên lạc chúng tôi, báo cáo là hai xe Mỹ ép xe jeep dẫn đầu đoàn xe xuống lề và xe jeep bị lật. Một người chết, hai người bị thương nặng. Tôi cho phi cơ phóng nhanh về hướng Pleiku để tìm hai xe Mỹ, hay hai tên Mỹ khùng thì đúng hơn. Hai xe đã qua khỏi thành phố Pleiku và hướng về căn cứ cách đó hai cây số. Nếu tôi biết được sự việc xảy ra trong lúc tai nạn, chắc tôi phải cho một trái hỏa tiễn khói chận đầu để cảnh cáo hành động côn đồ của chúng. Tôi theo dõi hai xe Mỹ cho đến bãi đậu trong căn cứ Mỹ, trong khi tôi liên lạc đoàn xe, và hướng dẫn xe jeep của mình đến cổng. Sau khi trình bày với người Mỹ gác cổng, tôi tiếp tục dẫn xe jeep, với người lính Mỹ ngồi trên xe, đến chỗ đậu hai xe hàng. Báo cáo cho biết, dấu vết gây tai nạn hiện rõ bên hông xe Mỹ, và đèn xe vẫn còn để sáng. Hy vọng luật pháp sẽ được áp dụng và nạn nhân sẽ được bồi thường.

-Chúng tôi nhận phi vụ thám sát về phía Tây Pleiku, ở bên kia biên giới Miên vào lúc xế chiều, khoảng 15 cây số trong nội địa Miên. Đây là tọa độ tổng quát, phi hành đoàn có toàn quyền chọn mục tiêu cho hai phi tuần phản lực A-37 giải toả, và không có quân bạn. Phi vụ giải tỏa thường là phi vụ túc trực hành quân trong ngày, nhưng không dùng đến, giờ thì đi giải tỏa để lấy phi xuất, hay có thể là phi vụ cuối cùng trong ngày không dùng đến… Tọa độ là khu rừng thưa, cây không cao lắm, không có nhà và đường mòn, thật là nơi hoang vắng. Với trách nhiệm và lương tâm một quan sát viên, chúng tôi không thể chọn toạ độ nầy để thả bom,  mặc dù đây là phi vụ giải toả, nhất là bên kia biên giới và cũng đã chiều. Chúng tôi quan sát một vùng rộng lớn và tìm thấy một căn nhà mái lá, ba gian, với vườn khoai mì xanh mượt, cao hơn đầu người, khoảng 100 mét vuông, phía sau nhà, và cách toạ độ 1 cây số. Để tránh ngộ nhận với nhà người Thượng, tôi quẹo một vòng quanh căn nhà ở cao độ thấp, và tìm thấy hai mái nhà tranh theo chiều Bắc Nam chỉ cách mặt đất chưa đầy 1 thước. Người thiểu số cất nhà cao cẳng, cái sàn nhà cao đến đầu người, và có cây thang trước nhà. Như vậy căn nhà quái dị và vườn mì là mục tiêu để thả bom. Chúng tôi bay ngược về biên giới cách mục tiêu 7 cây số và làm vòng chờ, đồng thời tránh sự nghi ngờ của địch. Sau 10 phút, phi tuần phản lực từ Nha Trang, với danh hiệu Thiên Lôi, gọi tôi qua tần số.

-Thần Điểu. Đây Thiên Lôi gọi.
-Thần Điểu nghe Thiên Lôi 5 trên 5.
-Thiên Lôi gồm 2 A-37, 8 trái 500 (Mk82) có mặt trên mục tiêu 5 phút nữa.
-Thần Điểu nhận rõ. Trục tấn công từ Bắc xuống Nam, quẹo trái, thả mỗi lần một trái, không có quân bạn. Thần Điểu giử hướng Đông, cao 2.000 bộ.
-Thiên Lôi nhận rõ.

Chúng tôi lấy hướng trở lại mục tiêu và để ý về hướng Đông Nam tìm phi tuần khu trục. Với thời tiết tốt, việc tìm nhau không mấy khó khăn. Chúng tôi thấy phi tuần và bắt đầu liên lạc:

-Thiên Lôi đây Thần Điểu.
-Thiên Lôi nghe.
-Thần Điểu ở hướng 11 giờ, thấp.
-Thiên Lôi nhận ra Thần Điểu, xin cho trái khói.

Tôi vào đánh dấu mục tiêu, trái hỏa tiễn khói bắn đi vào căn nhà. Tr/úy Độ bắt đầu hướng dẫn.

-Thiên Lôi thả vào căn nhà.
-Một vô… uùm…Một ra.
-Hai đánh vào căn nhà.
-Hai vô…uùm…Hai ra.
-Một đánh vô vườn mì…

Hai trái bom đầu đánh sập căn nhà, sáu trái còn lại đánh tan nát vườn mì. Tr/úy Độ nhịp nhàng điều chỉnh từng trái bom theo hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Phi tuần đánh bom như “Thiên lôi đả”, chỉ đâu đánh đó. Trong khi phi tuần thứ hai đang có mặt trên vùng và theo dõi phi tuần đầu oanh kích mục tiêu. Độ liên lạc và hướng dẫn phi tuần thứ hai đánh tiếp vào mục tiêu, chung quanh căn nhà. Những tiếng nổ long trời, những cột khói đen hòa lẫn cát bụi bốc cao. Sau trái bom cuối cùng, Độ gởi hai phi tuần tọa độ và kết quả sơ khởi, gồm một trại Việt cộng và vườn mì. Chúng tôi thỏa mãn với mục tiêu được chọn cho 16 trái bom.

Tr/úy Độ và tôi vừa hoàn tất nhiệm vụ với đầy đủ ý nghiã của một phi vụ trinh sát, chúng tôi lấy Trách nhiệm cho việc làm, Tổ quốc cho hy sinh, và Danh dự cho quân chủng. Chúng tôi đã hùng tráng và ước mơ nơi quân trường qua tiếng hát cho mỗi bước quân hành:
“Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới…
…Đoàn ta càng đi càng xa.
Quyết khi về đem lại đây chiến công.
Dù thân vùi quên lấp chìm”. (Không Quân Hành Khúc)
Chúng tôi lấy hướng trở về tổ ấm trong ánh chiều tàn. Phi trường Cù Hanh hiện mờ xa như đón chờ cánh chim muộn màng về đoàn tụ với đại gia đình.
Cộng sản đã vi phạm Hiệp định Genève, đưa quân vào miền Nam và dùng lãnh thổ Miên, Lào làm căn cứ cho các cuộc tấn công miền Nam. Hai ngày sau phi vụ không tập vào Bộ chỉ huy Việt cộng, Phòng Hành quân báo cho chúng tôi, có 90 tên“sinh Bắc tử Nam” và một Tướng lãnh đền tội.
Chiều hôm đó, Độ và tôi có bữa cơm đặc biệt với “con cá lớn” (T vc).


Phi Trường Pleiku 1969



L-19 Bay trong Bão Tố  (1969)


Chiếc L-19 vừa ngừng lại trong bãi đậu trước PĐ-114 trong buổi chiều lặng lẽ với bầu trời xám xịt ở hướng Tây, cũng là lúc Lộc bước nhanh ra khỏi phi cơ và rảo bước về hướng Không đoàn 62 Chiến thuật ở Nha Trang. Tôi chẩm rải lấy chiếc nón bay ra khỏi đầu, tháo đôi găng tay, rồi gấp lại cái bản đồ không hành và cho vào túi áo bay trước khi ra khỏi phi cơ. Trong bỗng chốc, đầu óc tôi như tách khỏi thân xác mình, có lẽ do ám ảnh của chuyến bay sống chết vừa qua, trong khi hành động chỉ là cái thói quen hằng ngày. Tôi lặng lẽ đi về hướng phi đoàn với cảm giác khác thường: Đơn côi vì không có người sánh bước, nghĩ ngợi về sự lặng lẽ của Lộc vì không biết mình đã làm giao động tinh thần của Lộc đến độ nào, hối tiếc cho chuyện không may xảy ra ngoài dự tính trong chuyến bay sống chết vừa qua.

Tôi được chuyển đến Phi đoàn Quan sát 114 ở Nha Trang, mặc dù vừa tốt nghiệp ở Mỹ với chỉ số khu trục, và được phi đoàn huấn luyện bay hành quân vào đầu năm 1968. Tôi bay với nhiều quan sát viên trong phi đoàn suốt thời gian hai năm rưỡi. Hầu hết các quan sát viên phi hành trở thành phi công quan sát sau nầy. Theo dòng thời gian, chúng tôi là những người bạn đồng hành trên khắp Vùng II, cùng đi biệt phái cho các tỉnh vùng biển từ Phan Thiết đến Qui Nhơn, và các tỉnh vùng Cao nguyên từ Bảo Lộc đến Kontum với núi đồi trùng điệp và thời tiết khắc nghiệt. Tình bạn ngày càng thắm thiết qua những lần biệt phái. Mỗi lần đi biệt phái mười lăm ngày cho một tỉnh lẻ, phi hành đoàn gồm một hoa tiêu, một quan sát viên và chiếc L-19. Như cánh chim tự do tung bay giữa trời xanh khi xa đơn vị. Phi hành đoàn cùng làm việc trong nhiệm vụ được giao phó ở chiến trường hiểm nguy, cùng chia sẻ niềm vui, buồn, và cùng sống, chết trên chiến trường trong suốt thời gian biệt phái. Cái tuổi “hâm …” và độc thân thì đâu cũng gọi là nhà, vô tư trong cuộc sống và ít khi nghĩ đến tương lai.

Sau hơn một năm bay hành quân, và đây là phi vụ Tăng phái (đi và về trong ngày) từ Nha Trang đến Ban Mê Thuột (BMT) để thi hành một phi vụ hành quân. Quan sát viên trong phi vụ nầy là Tr/úy Lộc và tôi cùng cấp bậc.  Anh có gương mặt trắng mởn, tròn triạ, tính tình điềm đạm và ít nói, lúc nào cũng đội chiếc nón bay khi lái xe Lambretta đi làm. Anh là nhân viên phòng HQCC/KĐ62CT và thỉnh thoảng bay cho phi đoàn. Chúng tôi cất cánh lúc sáng sớm và trực chỉ hướng Tây đến BMT, với cao độ 7.000 bộ qua đỉnh cao của dãy Trường Sơn chạy dài từ Nam ra Bắc. Xa về hướng Nam, đỉnh Chư Yang Sin, 8.005 bộ là đỉnh cao nhất ở Nam Trung phần. Thời tiết và điạ thế Vùng II luôn gây khó khăn cho phi công, vì vậy tai nạn phi cơ đôi khi xảy ra.

Chúng tôi đến BMT sau một giờ rưỡi bay trong thời tiết rất tốt. Phi cơ được châm đầy xăng, trong khi phi hành đoàn nhận lệnh hành quân và sẽ cất cánh trở lại cho phi vụ tìm kiếm và liên lạc toán thám sát. Toán nầy đã bị “Vẹm” bám sát trong mấy ngày qua. Sự xuất hiện phi cơ và liên lạc được toán đã làm cho toán lên tinh thần và di chuyển đến địa điểm an toàn. Vì sợ địch nghe, họ nói rất nhỏ và dùng kiến chiếu lên phi cơ để đánh dấu vị trí, thay vì dùng trái khói màu. Sau hai giờ làm việc với toán, chúng tôi về đáp ở BMT, dùng cơ trưa và dự trù cất cánh về Nha Trang lúc xế chiều, không trể quá ba giờ chiều. Tôi luôn dự trù về càng sớm càng tốt. Sau khi dùng cơm, chúng tôi được Cơ trưởng A, người bảo trì phi cơ, lái chiếc jeep của biệt đội, cho dạo một vòng phố BMT, để anh em có dịp ngắm lại phố Buồn Muôn Thuở hay mua những đặc sản như cà phê, măng khô…

Sau khi cất cánh trở về Nha Trang và bay được bốn mươi phút thì gặp phải dãy mây trắng thật cao bao phủ Trường Sơn. Vì không có lối bay vòng nào khác hơn, tôi lấy cao độ trong lúc liên lạc đài kiểm soát ở phi trường Nha Trang, và được biết thời tiết tốt ở đó. Chiều cao của mây là 9.500 bộ, tôi đang trên mây với cơ chế bay lên và dự trù sẽ giử cao độ 10.000 bộ. Mặc dù ở cơ chế bay lên, động cơ nổ dòn, phi cơ không thể lên mà chỉ giử ở cao độ 9.800 bộ khoảng ba phút. Sau đó phi cơ bắt đầu mất cao độ, việc mà tôi không nghĩ có thể xảy ra, vì L-19 có thể bay cao hơn nữa. Tôi hối tiếc là chưa bao giờ bay thử L-19 ở cao độ tối đa để biết khả năng của nó. Bây giờ phi cơ vào mây, cao độ giảm dần. Sau hai phút bay trong mây, mưa bắt đầu, và ngày càng nhiều hơn. Những tiếng sấm chớp về phía trước, bên trái vang rền liên hồi như bom nổ. Các đồng hồ phi cụ như chân trời giả (gyroscope) và la bàn (magnetic compass) không hoạt động bình thường, xoay tứ tung. Phòng lái tối hơn, nhưng không phải dùng đèn. Trong lúc tinh thần căng thẳng và đối đầu với tử thần, tôi chuẩn bị cho một tai nạn có thể xảy ra, như đụng vào núi, vertigo* (chóng mặt, nhầm lẫn), phi cơ triệt nâng... Trong lúc đó, như một phản xạ, tôi nhớ lại phần huấn luyện bay bán phi cụ  (partial instrument) ở trường bay, bằng cách sử dụng đồng hồ “turn and bank indicator”, và “climb and descent indicator” để điều khiển phi cơ bình phi. Phi cơ chao đảo trong gió giựt, cao độ chậm chạp mất dần, giờ chỉ còn 4.000 bộ, do thời kỳ luồng không khí đi xuống (downdraft) của dãy mây độc hại nầy.

Cho đến giờ nầy, Lộc vẫn giữ im lặng, không biết anh đang làm gì phía sau, có lẽ anh đang viết những lời giả từ cuối cùng đến gia đình, bạn bè hay ghi lại sự việc đang xảy ra cho những người tìm kiếm phi cơ lâm nạn về sau?  Sự im lặng của Lộc, thay vì những lời nói không đâu trong tinh thần lo sợ, đã giúp tôi tập trung hết tinh thần để đối phó với tử thần hay những khó khăn đang gặp phải.

Sau mười lăm phút trôi qua, những tiếng sấm sét và mưa dịu dần. Mặc dù không thấy gì phía trước, nhưng tôi có thể thấy phần dưới cánh những ngọn cây mờ mờ khá xa. Tôi cúp ga, xà xuống ngọn cây cho được an toàn, để tránh ám ảnh đụng vào núi, và nếu phải đáp ép buộc (crash) thì cơ hội sống sót vẫn được nhiều hơn. Thật may mắn! Phi cơ bay vào một thung lũng sau khi tránh các sườn núi chung quanh, sau nầy mới biết đó là Đồng Trăng hướng Tây Nam phi trường Nha Trang khoảng 8 dậm. Tôi bay trong thung lũng nầy được vài vòng trong mưa với tầm nhìn quá giới hạn, và yên tâm không phải làm crash. Trong cùng lúc, tôi qua tần số cứu cấp, UHF 243 để liên lạc, và được một người Mỹ đáp lời ngay, không biết ông bay loại gì. Trong vòng ba phút, ông có mặt bên ngoài thung lũng. Tôi ngạc nhiên trước sự nhanh nhẹn nầy. Khi biết tôi bên trong thung lũng đang mưa bao phủ, phi cơ của ông không vào được, thì cuộc điện đàm chấm dứt ngay sau đó. Tôi bay đến vòng thứ năm và tìm thấy một khoảng trống, giữa hai ngọn núi về hướng Bắc, có ánh sáng bên ngoài. Tôi đưa phi cơ bay lên, chui qua chỗ nầy và gặp ngay đồng bằng, phía Tây phi trường Nha Trang với bầu trời quang đãng. Có lẽ ông Mỹ kia bay ở đây trong giây phút vừa qua. Nếu tôi không xà xuống ngọn cây khi nãy, phi cơ sẽ ra khỏi mưa trong vài phút. Lộc vẫn giữ im lặng cho tới khi phi cơ đáp và di chuyển vào bãi đậu.

Mặc dù thời gian trôi qua khá lâu, ngoài bốn mươi năm, cứ mỗi lần nói đến bay bổng trên chiếc L-19, đầu óc tôi miên man khó nghĩ, không những chỉ chuyến bay ác quái kia, mà chính sự im lặng của Lộc. Chính tôi cũng nhận thấy, không một quan sát viên phi hành nào đề cập đến sự bay bổng của tôi trong suốt thời gian hai năm rưỡi, khi bay L-19. Đây là lúc tôi muốn biết ý kiến của một cựu quan sát viên, và gọi anh Khải cùng phi đoàn, xin cho biết cảm tưởng của anh khi bay với tôi. Anh cho biết: Khi bay với những hoa tiêu giỏi và những người học ở Mỹ, tôi yên tâm hơn. Có lần phi cơ tắt máy mà Bác tĩnh bơ. Tưởng cũng nên nhắc lại, trong phi vụ tôi và Khải cất cánh ở Quảng Đức, trong khi lấy cao độ, phi cơ tắt máy ở ba ngàn bộ. Tôi bình tĩnh đưa phi cơ đáp ép buộc trên quốc lộ, nhưng sau đó phi cơ nổ máy trở lại. Chúng tôi bỏ phi vụ và về đáp an toàn.

Qua ý kiến của Khải và bài viết nầy, lòng tôi thấy nhẹ nhàng, và tôi có thể khẳng định Phi hành đoàn Quan sát luôn đề cao tinh thần đồng đội và tôn trọng nghề nghiệp của mỗi người trong lúc thi hành phi vụ.



Mây Giăng Lối Về 


Phòng Lái L-19




L-19 Yểm Trợ Trại LLĐB Dak Seang  (1970)


Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện khu trục ở Mỹ, tôi và Xê trở về nước cuối tháng Mười năm 1967. Chúng tôi được thuyên chuyển đến Phi đoàn Khu trục cánh quạt 524, danh hiệu Thiên Lôi, ở Nha Trang,  trong khi phi đoàn nầy chuẩn bị đi học chuyển tiếp A-37 phản lực. Thành phần còn laị Xê, Ẩn và tôi cùng hai hoa tiêu Thuyên và Phương từ Phi đoàn Vận tải được chuyển đến Phi đoàn Quan sát 114, Thần Điểu ở Nha Trang, dưới quyền chỉ huy của Th/tá Hậu. Sau mấy phi vụ huấn luyện, tất cả đều ra bay hành quân. Không Đoàn 62 ở Nha Trang và Căn cứ 92 ở Pleiku thuộc Vùng II, Phi đoàn 114 yểm trợ cho Quân Khu II, trải dài từ Phan Thiết đến Qui Nhơn và vùng Cao nguyên từ Bảo Lộc đến Kontum. Tất cả hoa tiêu và quan sát viên ở đơn vị gốc 15 ngày mỗi tháng và đi biệt phái 15 ngày ở một trong 5 tỉnh: Phan Thiết, Qui Nhơn, Bảo Lộc, Ban Mê Thuột và Pleiku. Phi đoàn Quan sát có khoảng 40 nhân viên phi hành và 28 phi cơ trong năm 1970.

Về hành quân, trước khi hướng dẫn phi cơ khu trục thả bom, phi hành đoàn quan sát đã làm việc với quân bạn ở dưới đất để biết rõ các vị trí bạn và địch, khoảng cách và hướng cho bom tàn phá. Sau cùng họ chọn hướng thả bom cho phi tuần khu trục. Hướng thả bom hay trục tấn công tuyệt đối phải đặt quân bạn bên trái hay phải (thường là bên trái) với tầm xa tối thiểu cho vấn đề an toàn, vì bom thường rơi dài ra hay ngắn lại nhìều hơn là sai lệch qua trái hay phải của trục tấn công. Việt cộng thường tránh né bom đạn bằng cách bám sát vào quân bạn hay bung rộng ra ngoài, nhưng không sao tránh khỏi bom đạn qua kinh nghiệm phi hành đoàn quan sát. Có thể nói, trinh sát là kỹ thuật khám phá ngụy trang địch. Cái thú của chúng tôi là thấy rõ những gì mình muốn thấy. Bay L-19 là sống thọ so sánh với bay A-1.

Sau 6 tháng từ ngày ra hành quân, các hoa tiêu từng xuất thân từ Mỹ được thụ huấn cách hướng dẩn khu trục cơ Mỹ thả bom và được các hoa tiêu Quan sát Mỹ huấn luyện trong căn cứ. Trong Không quân Mỹ, phi công quan sát đòi hỏi phải là người đã từng bay khu trục và có cấp bậc cao, nhưng KQVN không áp dụng phương thức nầy.

Trong hai năm 1968 và 1969, tôi đi biệt phái khắp Vùng II, nhưng không có trận đánh nào đáng kể.  Lần biệt phái thứ tư cho Pleiku trong năm 1970, khi các cánh đồng cỏ tranh ngả màu vàng cháy. Chiếc L-19 vừa lướt qua Khánh Dương với bầu không khí diụ vợi trên cao độ bình phi, và tốc độ 80 miles/giờ. Tuy là lần đầu đi biệt phái với Huy, nhưng tôi thấy thân tình và cởi mở như những đồng đội khác, mặc dù chúng tôi không cùng một mái nhà, chỉ cùng đơn vị và người lãnh đạo. Chúng tôi cùng đi chung và làm việc với nhau từ trên trời hay dưới đất, cùng đi ăn chung, cùng ngũ một phòng...Tôi hỏi Huy:

-Chúng mình sẽ làm gì cho nửa tháng tới?
-Chúng ta sẽ đến thăm Biển Hồ, ăn bún bò Huế ở gần nhà xác, uống cà phê và nghe nhạc ở phố…
-Ồ, hay lắm!

Làm gì có được biển cát, nước trong và rộng giữa vùng Cao nguyên, Biển Hồ là miệng núi lửa ngày xưa. Pleiku là thành phố nhiều lính, những bộ quân phục rằn ri khá nhiều trong các quán cà phê và trên đường phố. Pleiku nắng bụi, mưa bùn, có biệt danh là phố Núi. Núi đồi chung quanh Pleiku kết thành quang cảnh hữu tình trong buổi hoàng hôn.

Tr/u Huy và tôi cùng cấp bậc, chúng tôi vừa đến Pleiku là nhận ngay một phi vụ yểm trợ cho trại Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Dak Seang; ngày 1-4-1970 khởi đầu cho cuộc tấn công của Cộng quân. Đây là trận đánh lớn đối với tôi trong thời gian bay L-19, và cũng là lần đầu sau hơn hai năm bay hành quân.

Dak Seang nằm về hướng Tây Bắc Kontum khoảng 70 km, hướng Đông Quốc lộ 14 nối dài bởi đoạn đường đất, gần biên giới Lào, thuộc vùng Tam biên (Việt, Miên, Lào) và đường mòn Hồ Chí Minh, nơi có nhiều  trận đánh lớn. Trại Dak Seang có phi trường đất dài 1.400 bộ, cao 2156 bộ trên mực nước biển, chạy từ Bắc xuống Nam. Thế đất lồi lõm có nhiều đồi, gần dãy núi dốc cao ở hướng Đông và thoai thoải cao về hướng Tây. Dak Seang nằm trong thung lũng.

Trại LLĐB Dak Seang (A-245) gồm các thành phần lực lượng dân sự chiến đấu, đa số là người điạ phương thuộc các sắc dân thiểu số. Họ được LLĐB Mỹ huấn luyện và trang bị vũ khí tối tân. Trại được thành lập vào tháng 8-1966 với quân số 450 và các đơn vị cố vấn LLĐB Mỹ (Sau nầy trại Dak Seang được chuyển giao cho Biệt Động Quân ngày 30-11-1970). Trại có nhiệm vụ kiểm soát và ngăn chận đường xâm nhập CSBV từ biên giới Lào vào Dak Tô, Kontum. Trại được thiết kế hình ngũ giác ở hướng Tây phi đạo, và cách phi đạo 100 thước. Năm 1970, phi trường được nới dài, và cải tiến công sự phòng thủ của trại bao quanh phi trường trên các ngọn đồi. Cộng quân chọn Tây Nam của đầu phi đạo Nam làm bàn đạp, nhưng không chọc thủng trước sự tử thủ can trường của người lính LLĐB, và yểm trợ hữu hiệu của Không quân VN. Cộng quân tung Trung đoàn 28, đơn vị 40 pháo và nhiều đơn vị của Trung đoàn 60, tổng số từ bốn đến năm ngàn quân, với quyết định san bằng trại nầy.

Tôi không nhận ra một chiếc phi cơ quan sát Mỹ nào ở trên vùng trong suốt cuộc chiến, nhưng có một chiếc khu trục A-1 (Skyraider) của Mỹ đáp khẩn cấp (crash) và chạy ra ngoài lề trái khoảng giữa phi đạo. Chiếc A-1 nầy là một trong những chiếc đến từ Thái Lan yểm trợ cứu cấp phi hành đoàn trực thăng Mỹ lâm nạn. Chúng tôi hướng dẫn từ 3 đến 4 phi tuần A-37 VNCH mỗi ngày trong thời tiết tốt, mỗi chiếc mang 4 trái 500 cân và thỉnh thoảng cũng hướng dẫn phi tuần F-4 của Mỹ thả bom. Chúng tôi cất cánh từ Pleiku bay thẳng đến Dak Seang khoảng 40 phút và tiếp tục làm việc cho đến trưa, rồi đáp ở Kontum lấy xăng cho phi vụ chiều. Sau khi hoàn tất phi vụ chiều, tôi bay thẳng về Pleiku, tối thiểu là bảy tiếng bay một ngày.

Sau một tuần giao tranh và kềm chân Cộng quân, quân ta từ Dak To theo Quốc lộ 14,  trực thẳng hướng Nam trại Dak Seang qua đường đất đỏ để mở đường tiếp viện, nhưng bị địch đóng “chốt” ở hướng Nam của trại khoảng 10 cây số cho đến ngày tan cuôc. Đơn vị nầy không có Không quân yểm trợ; hy vọng họ được pháo yểm từ Dak To.

Ngày 12-04-1970, CSBV dùng chiến thuật “tiền pháo hậu xung,” bằng cách pháo hằng trăm quả đại pháo vào trại lúc mờ sáng, dùng các đơn vị đặc công và bộ binh đánh vào trại sau khi ngưng pháo, nhưng không chọc thủng phòng tuyến của quân ta. Cộng quân thảm bại nặng nề và đã dùng chiến thuật nầy ít nhất là ba lần cho cuộc chiến. Sau hai tuần chiến đấu oai hùng của người lính LLĐB, Cộng quân không tiến hơn một bước. Bao nhiêu bom đạn chỉ đổ dồn vào một vị trí nóng mà đôi bên tranh giành từng tất đất, đó là Tây Nam đầu phi đạo 300 m. Từ trên cao nhìn xuống, toàn vùng rộng lớn với cỏ tranh vàng cháy, chúng tôi không tài nào nhìn thấy dấu vết của đôi bên mặc dù bay ở cao độ chỉ l.000 bộ. Mỗi buổi sáng khi đến vùng, chúng tôi nghe quân bạn báo cáo thêm tổn thất, chết và bị thương do khẩu pháo 82 ly của địch từ hướng Tây, nhưng quân bạn không xác định được khoảng cách. Mỗi lần phi tuần thả bom là viên cố vấn Mỹ yêu cầu thả xa ra qua tần số FM, vì sợ bom rơi trên đầu, nhưng quân ta thì không lo sợ điều nầy. Tôi cũng đồng ý với sự lo sợ của viên cố vấn Mỹ, nếu nhìn lên cao 4.000 bộ thì quả bom hẳn phải ở trên đầu, nhưng khi chạm đất quả bom chỉ cách họ từ 60 m trở ra. Tất cả bom đạn của F-4 được rải cách khoảng và xa về phía Tây, trên đường chuyển quân và tiếp liệu của địch theo dự đoán của tôi, từ 200 m trở ra, vừa an toàn và dễ dàng cho phi tuần F-4. Mỗi phi tuần A-37 đều được xin dùng Minigun bắn một pass gần vào trái khói xanh, vị trí quân bạn. Nhưng khó mà thực hiện được, vì một trở ngại là phản lực cơ A-37 không còn nhiều xăng khi cất cánh từ Nha Trang, và họ không thể chờ trên vùng làm viêc. Một hôm tôi quyết định cho đánh gần hơn vào vị trí quân bạn vì tin tưởng vào các phi công nhiều kinh nghiệm của PĐ-524 như : Yên, Cả…  Sau trái bom thứ ba của phi tuần trưởng, cỏ tranh bị rạp xuống , tôi thấy ngay một hố ở giữa quả bom, đó là vị trí súng cối 82 ly và 10 hố cá nhân xung quanh với đường kính khoảng 10 m. Khẩu cối nầy đã gây tổn thất khá nhiều cho quân ta từ ngày khởi chiến. Tôi cũng báo cho quân bạn biết tin nầy. Sáng hôm sau, một không khí khác thường, quân bạn không báo cáo thiệt hại như những lần trước, ngược lại họ có một đêm yên ổn nhất. Tôi thường cho Phi hành đoàn Quan sát như một vị Chỉ huy nho nhỏ trên chiến trường. Họ thấu đáo địa thế, vị trí các cánh quân, hợp tác với quân bạn và điều hành không yểm sao cho có kết quả nhất, trong khi tránh lỗi lầm có thể gây thương tích cho quân bạn. Cho đến giờ nầy, tôi thấy ở đầu phi đạo Nam có 3 chiếc Caribou (C-7) và 6 chiếc UH-1 bi rớt vẫn nằm đó. Số tử vong và thương binh không có cơ hội được tải khỏi chiến trường, không hiểu số phận của phi hành đoàn không may mắn kia ra sao?

Trận chiến vẫn tiếp tục trong khi 15 ngày biệt phái của chúng tôi sắp hết, phi hành đoàn khác sẽ đến thay. Huy và tôi quyết định xin ở lại để tiếp tục cuộc chiến cho đến ngày kết thúc. Cuộc sống độc thân của những người như chúng tôi thì ở đâu cũng gọi là nhà. Một nguyên nhân hay đông lực nào đã thúc đẩy chúng tôi trong sự quyết định nầy? Chúng tôi muốn nhìn thấy tận mắt mình bằng một kết thúc, cho dù thắng hay bại. Chúng tôi cùng các chiến sĩ Không quân không may mắn làm crash trên phi đạo nầy đã hy sinh xương máu, đem hết khả năng để cùng quân bạn chiến đấu dũng cảm, chống lại kẻ thù chung. Người ta thường nói và tin là không nên tình nguyện bay bổng vì gặp phải những điều không may, nhưng lần nầy lại là trường hợp ngoại lệ. 

Sau bữa cơm chiều trong căn cứ, tôi trở về chỗ tạm trú và ngồi trên thềm gạch, hướng mắt xa xăm qua núi đồi chập chùng trong làn gió mát rượi của buổi hoàng hôn. Bỗng dưng, tôi nhớ lại hoàng hôn trên bờ biển Qui Nhơn với Thu Vân, nữ sinh trong chiếc áo dài trắng đã làm rung động trái tim tôi. Chúng tôi tay đan tay, mắt nhìn mắt như thầm mong chờ một cái gì hơn nữa, rồi đồng tình với cái hôn. Tôi nhận ba lá thư của cô giáo Ánh, người bạn học khi xưa, từ Sài Gòn trong mấy ngày qua. Cô nói nhiều đến tình yêu… và sự kiên nhẫn đợi chờ gần cạn kiệt. Tôi tủi hờn cho chiến tranh và ví tình yêu với lính trong chiến tranh tàn khốc như “bèo hợp mây tan”. Huy đến gần, như đoán đưọc tâm tư tôi và rủ đi uống cà phê ở phố tối nay. Tôi đồng ý với Huy.

Cuộc chiến tiếp tục sang tuần lễ thứ ba. Thời tiết trên vùng vẫn khả quan, chưa có một ngày làm cản trở không yểm. Số phi cơ đáp khẩn cấp vì bị phòng không CS ở đầu phi đạo Nam vẫn không thay đổi. Có lẽ đường không vận đã bị phong tỏa? Cộng quân thêm hai lần “tiền pháo hậu xung” nhưng phòng tuyến nóng bỏng vẫn còn đó, chưa bị chọc thủng bởi Cộng quân. Bao nhiêu bom đạn lúc xa, lúc gần, đổ dồn vào vị trí nầy như cố bảo vệ tất đất hiếm quý, vì nó là trọng điểm cho vận mạng trại. Tôi không hiểu người lính LLĐB lấy gì để ăn, để sống mà vẫn tiếp tục chiến đấu gan lỳ bên cạnh những đồng đội ngã gục, dấu hiệu kết thúc chỉ là dấu hiệu khởi đầu, có chăng là tinh thần trách nhiệm, danh dự và tổ quốc đã được trui rèn và thấm thấu trong dòng huyết quản, và họ là những người âm thầm chiến đấu cho miền Nam Tự do.

Trận chiến kéo dài đến tuần lễ thứ tư với cường độ không suy giảm. Quân tiếp viện của ta vẫn còn bị đóng “chốt”. Cánh quân chịu nhiều áp lực của cộng quân không còn báo cáo tổn thất do cây cối 82 ly. Bom đạn không yểm rớt đều. Những quả bom của B-52 cày lên đất đỏ khoảng 2 cây số ở Đông và Tây của trại. Nếu địch không mở được những cuộc tấn công mạnh hơn, đó là dấu hiệu rút lui. Thật vậy!  Cộng quân lặng lẽ rời khỏi chiến trường vào cuối tháng Tư năm 1970, sau 30 ngày tử chiến. Còn gì sung sướng bằng, khi ngày mong đợi đã đến với mọi người! Ngày mai là ngày thay đổi phi hành đoàn mới. Chúng tôi chia tay với người lính LLĐB trong tình huynh đệ chi binh và hẹn ngày tái ngộ. Con tàu lặng lẽ giã từ vùng đất điêu tàn với niềm hân hoan chiến thắng. Tính ra có khoảng 75 phi vụ A-37 hay 150 phi xuất được dùng cho chiến trường.

Sau 35 năm, tôi gặp Đệ, một người lính của trại LLĐB, qua sự tình cờ trong buổi tiệc cưới ở Mỹ. Anh Đệ hết lời ca ngợi Không quân VN, và cho rằng nếu không có sự yểm trợ Không quân thì khó mà giữ được trại. Anh cho biết, trước đó 3 tháng, có một tên lính đào ngũ; trại cho dời hệ thống truyền tin qua một chỗ khác, nên không bị thiệt hại, vị trí truyền tin cũ hoàn toàn bị pháo sập. Cộng quân quá đói khát và không còn đủ sức vượt qua hàng rào phòng thủ. Quân ta có 225 người chết và bị thương, trong khi địch chết và bị thương hơn hai ngàn tên. 



Trại Lực Lượng Đặc Biệt Dak Seang 1968




Phần II


Phi diễn mừng ngày Quốc Khánh- Th/tá Trát bay lead. Tác giả bay số 3 cánh phải


Khu Trục A-1  (1970 – 1975)

AD-6 (A-1H)

A-1 Skyraider được chế tạo từ công ty Douglas Aircraft trong năm 1944 còn gọi AD-6 (Able Dog), một chỗ ngồi lái, đến năm 1962 đổi tên A-1H. AD-5 hay A-1E có hai chỗ ngồi lái cạnh bên. Chiếc Skyraider cất cánh đầu tiên ngày 18-3-1945. Tổng số lượng sản xuất là 3.180 chiếc và chiếc cuối cùng vào tháng 2-1957, gồm 17 kiểu khác nhau cho mỗi chức năng và binh chủng sử dụng. Phi cơ một máy, 18 cylinders (R-3350-24W, 2.500 mã lực và R-3350-26WD,  2.700 mã lực) gồm một chong chóng 4 cánh. Phi cơ có chiều dài 39.37 bộ (ft), ngang 50 bộ và cao 15.75 bộ. Hai bên phòng lái và phía dưới có bọc thép dầy nửa inch. Tốc độ bình phi từ 170 đến 200 knots* (196- 230 miles/hr), tốc độ tác chiến 260 knots và tối đa 410 knots. Phi cơ có 15 racks, vị trí móc bom. Móc ở giữa và hai bên cánh trong có thể mang bình xăng phụ. Phi cơ được trang bị 4 đại bác 20 ly, mỗi cánh hai cây, 200 viên mỗi cây. Tổng số lượng vũ khí có thể mang từ 7.000 đến 8.000 cân gồm bom, hỏa tiễn, đạn…(phi cơ quá cũ chỉ mang 3.000 cân bom từ năm 1971). Phi cơ nặng 12.095 cân, với xăng nhớt, bom đạn có thể cất cánh ở 25.000 cân tối đa. Tầm hoạt động tối đa là 1553 miles. Sáu chiếc phi cơ đầu tiên đến phi trường Biên Hòa giao cho Việt Nam vào tháng 9 năm 1960. Có tất cả 7 Phi đoàn A-1 và một Biệt đoàn 83. Bốn phi đoàn A-1 được chuyển tiếp sang A-37 và F-5 vào năm 1968, sau cùng còn lại 3 Phi đoàn A-1, đó là PĐ-514, PĐ-518 và PĐ-530 cho đến 30-4-1975.


Nhớ Về Hành Quân Toàn Thắng  (1970)

Không quân VNCH phát triển nhanh cho nhu cầu chiến trường trong 20 năm (1955-1975), được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới và góp phần quan trọng, hữu hiệu trong cuộc chiến ở miền Nam Viêt Nam qua quá trình hoạt động của các đơn vị không phi hành như Kỹ thuật, Bảo trì, Vũ khí… yểm trợ đơn vị phi hành như Huấn luyện và Hành quân được tóm lược như sau:

-Phi đoàn Vận tải dùng chuyển quân lên đến cấp Lữ đoàn đến từng vùng, đưa hằng tấn vũ khí và tiếp liệu đến chiến trường, hành quân AC-47 và AC-119G  với đại liên 6 nòng, C-130 thả bom BLU-82 nặng 15.000 cân và trắc giác tình báo điện tử EC-47D…

-Phi đoàn Trực thăng CH-47 Chinook và UH-1 chuyển quân đến cấp tiểu đoàn và vũ khí đến trận điạ, Trực thăng võ trang yểm trợ Trực thăng đổ quân và hành quân, Trực thăng tải thương và Trực thăng chỉ huy chiến trường C&C...

-Phi đoàn Quan sát với L-19, U-17 làm việc trực tiếp với Lục quân, bao vùng, hướng dẫn khu trục thả bom, điều chỉnh đạn pháo binh, phi vụ liên lạc…

-Phi đoàn Khu trục A-1, A-37B và F-5A/B yểm trợ tiếp cận cho quân bạn và đánh phá mục tiêu qua không ảnh cung cấp từ phi cơ RF-5A. A-1 bay bao vùng. F-5E nghêng cản bảo vệ không phận.

-Trung tâm Huấn luyện Không quân dùng T-6, T-41, T-37 và UH-1 để huấn luyện phi công ở Nha Trang.

Không Quân VNCH với khẩu hiệu “Tổ Quốc Không Gian” chiến đấu hào hùng, thừng xuyên qua màn lưới phòng không địch.

Tôi trở lại Phi đoàn Phi Long 518, Khu trục cánh quạt Skyraider ở Biên Hoà thuộc Vùng III Chiến thuật vào giữa năm 1970,  sau khi hoàn tất hai năm rưỡi biệt phái cho Phi đoàn Quan sát Thần Điểu 114 ở Nha Trang, Vùng II Chiến thuật.  Thật bỡ ngỡ khi bay lại chiếc Skyraider, vì nó đồ sộ với nhiều mã lực của một phi cơ chiến đấu, nhưng rồi mọi việc cũng xong. Sau bốn phi vụ bay quen tay, solo và thực tập thả bom, tôi bắt đầu bay hành quân với tư cách là một Phi tuần viên, hay rõ hơn là phi công bay chiếc số 2, chỉ nhận và thi hành lệnh của người bay chiếc số 1 hay Phi tuần phó. Một phi tuần nhẹ gồm hai phi cơ. Phi tuần phó có nhiệm vụ dẫn phi tuần đến mục tiêu hay điểm hẹn trên vùng hành quân, và liên lạc phi cơ quan sát để nhận chỉ thị rõ ràng trước khi thả bom.  Sau khi thực hiện hai phi vụ hành quân trong nội điạ, tôi bắt đầu tham dự cuộc Hành quân Toàn Thắng vào tháng 7 năm 1970.

Hành Quân Toàn Thắng (HQTT) dưới sự lãnh đạo của Tướng Nguyễn Văn Hiếu và Sư đoàn 5 Bộ binh, đánh sang lãnh thổ Miên, bắt đầu tháng 4 năm 1970 và chấm dứt vào tháng 4 năm 1971, trải qua từng giai đoạn cho từng điạ điểm khác nhau do Quân Đoàn III thực hiện. Những mục tiêu gần như: Thiện Ngôn, Kampong Cham hướng Bắc Tây Ninh khoảng 40 km, xa hơn là Krek, Mimot, và Snoul là điểm xa nhất, hướng Tây Bắc Lộc Ninh 50 km. Cộng sản lợi dụng đất Miên làm căn cứ hậu cần an toàn trong nhiều năm qua và là nơi tiếp liệu vũ khí, quân số, dưỡng quân… để hỗ trợ các cuộc hành quân của cộng quân trong Vùng III.

Không đoàn 23 Chiến thuật ở Biên Hoà tham dự HQTT gồm 2 Phi đoàn Quan sát 112, 124 và 3 Phi đoàn Khu trục: hai Phi đoàn Skyraider 514, 518, Phi đoàn 522   phản lực F-5 và Không đoàn 43 Chiến thuật (KĐ43CT) gồm nhiều Phi đoàn Trực thăng. Tất cả phi cơ Skyraider đều được trang bị thêm bình xăng phụ có dung tích 300 gallons ở dưới bụng phi cơ, nhờ vậy phi cơ có thể bay từ 5 đến 6 giờ trong trường hợp phải ở lâu bao vùng cho đơn vị bạn. Thông thường phi vụ chỉ cần khoảng hai giờ bay. Mỗi Skyraider được trang bị tối đa là 8 trái 500 cân (bls) bom mảnh (Mk82) hoặc bom xămg đặc (Napalm) cộng thêm 800 viên đại bác 20 ly cho 4 cây súng.

Trong suốt HQTT, chiếc số 2 luôn được trang bị bom Napalm. Mỗi lần vào thả Napalm qua lối đánh bom “skip”, phi cơ bay thấp trên ngọn cây để thả cho hiệu quả của trái bom đạt được mức sát hại tối đa. Mỗi lần thả một trái đã làm cho phi cơ mất thăng bằng, nhất là ở cao độ thấp, khá nguy hiểm! Nhưng không một Phi tuần phó nào ra lệnh cho thả mỗi lần hai trái cho phi cơ thăng bằng hay thả từ trên cao cho an toàn. Cũng may, SA-7 (hỏa tiễn tầm nhiệt) chưa có trong thời gian nầy. Xin nhắc lại SA-7 bắt đầu sử dụng vào cuối năm 1971, theo sự ghi nhận của tôi, từ đó không một phi công nào thả Napalm ở cao độ thấp. Phi công ngày càng quan tâm và chuẩn bị cho cuộc hành quân ngoại biên qua sự bận rộn của nhân viên kỹ thuật trong việc trang bị bình xăng phụ cho mỗi phi cơ. Phi đoàn lúc nào cũng bận rộn cho các phi vụ hành quân thường lệ, nhưng giờ đây đơn vị lại càng bận rộn hơn. Khởi đầu là các phi vụ gần biên giới Bắc Tây Ninh ở Thiện Ngôn, địch chống trả mạnh mẽ nhưng vẫn rút lui trước sức tiến mạnh bạo của quân ta, thêm vào không yểm mạnh mẽ và hữu hiệu của Không quân. Các phi vụ không yểm tiến sâu vào lãnh thổ Miên qua các tỉnh Kampong Cham, Krek, Mimot và Snoul trong những tháng sau đó. Người dẫn phi tuần mà tôi có cơ hội bay chung qua nhiều phi vụ là ông Trưởng phòng Hành quân D.B. Trát. Ông là một trong những phi công tài giỏi của PĐ-518.

Mỗi lần vào thả Napalm ở cao độ thấp gần sát ngọn cây, đều nghe trên tần số FM giữa Bộ binh và Không quân, qua câu nhắc nhở từ quân bạn “phòng không bắn lên anh đó!” Phải chăng, sự lo sợ cho phi công đặt lên trên nhu cầu khẩn thiết cho chính mình? Câu nói chân tình nầy không làm phai lòng chiến đấu dũng cảm của phi công, họ luôn quyết tâm chia sẻ những khó khăn với quân bạn. Trên chiến trường, phi công chấp nhận mình như tấm bia cho phòng không địch, kẻ bắn được ngụy trang khéo léo và nghe đâu họ bị xích vào chiến cụ (?) Thời gian vào thả bom từ 8 đến 10 giây đồng hồ là thời gian nguy hiểm nhứt do phòng không địch bắn lên. Tôi may mắn không bị một viên nào. Phi cơ cựu Th/Tá Nguyễn Văn Tùng (PĐ-518) bị trúng đạn và làm crash ở Mimot, một phi trường nhỏ. Anh may mắn được Phi công Quan sát, Đ/úy Từ Bá Đạt bay trên vùng làm việc đã thực hiện một hành động anh hùng trước phòng không địch và can đảm đáp phi cơ L-19 xuống phi trường Mimot để cứu Th/tá Tùng, trong lúc Việt cộng săn tìm và bắn theo phi cơ khi cất cánh. Để tưởng nhớ đến người bạn Nguyễn Duy Vinh, cùng khoá (64D) và cùng PĐ- 518, đã hy sinh cho Tổ quốc trong HQTT. Anh để lại vợ và một con thơ. Xin thấp nén hương lòng và nguyện hương linh người quá cố sớm siêu thoát.

Hành Quân Toàn Thắng chứng minh sự lớn mạnh của KĐ23CT/SĐ3KQ trong việc yểm trợ quân bạn đánh thần tốc sang biên giới Miên và gây tổn thất nặng về nhân mạng và tiếp liệu của nhiều căn cứ hậu cần Việt cộng. Trong khi PĐ 518 chấp nhận một phi công hy sinh và mất đi hai phi cơ khu trục. Đây chỉ là thiệt haị nhẹ cho đơn vị so với thời gian hành quân một năm. Th/tá Lê Q Hùng là Phi đoàn trưởng PĐ 518 vào lúc nầy. 


Chiến Trường Quảng Trị trong Mùa
Hè Ðỏ Lửa với Phi Ðoàn Khu Trục 518
(04-04-1972)

Ðể  tưởng niệm 37 năm ra đi của hai phi công Trần Thế Vinh và Phan Quang Tuấn, thuộc Phi đoàn 518 ở Quảng Trị trong Mùa Hè Ðỏ Lửa, tháng 4 năm 1972. Ðể chia sẻ với thân nhân những người đã bỏ mình sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 mà bọn CS cho họ là những người mang “nợ máu”.

Ðã ba mươi bảy năm rồi mà tôi khó quên đi hai người bạn Trần Thế Vinh và Phan Quang Tuấn trong cùng đơn vị, đã nêu cao gương anh dũng, không lùi bước trước phòng không địch và hy sinh cho Tổ quốc. Các Anh tô đậm màu cờ, làm rạng rỡ sắc áo và xứng đáng là những người trai hùng. Các Anh đã đóng góp cho cuộc chiến thắng ở Quảng Trị và ra đi cho mọi người được tiếp tục cuộc sống tự do.

PÐ-518 với danh hiệu Phi Long thuộc SĐ3KQ ở Biên Hòa, được trang bị loại phi cơ cánh quạt Skyraider có khả năng mang 4.000 cân bom, hỏa tiễn và 800 viên đại bác 20 ly. Hầu hết các phi vụ là yểm trợ tiếp cận cho quân bạn do sự chính xác, khả dụng trong thời tiết xấu và thời gian ở lâu trên vùng làm việc.

Vào đầu tháng Tư năm 1972, nếu tôi nhớ không nhầm đó là ngày 4-4-72. Mọi sinh hoạt của phi đoàn được coi là bình thường cho đến chín giờ rưỡi sáng, tiếng gọi họp khẩn cấp của vị Phi đoàn trưởng, Th/tá Hùng, còn gọi là “Hùng râu” được loan đi. Cái không khí ồn ào, hoang mang lẫn nghiêm trọng bắt đầu đến trong Phòng hành quân của phi đoàn. Nhng người hiện diện bắt đầu liên lạc người vắng mặt, kể cả các phi công nghỉ trong ngày. Tất cả các phi công có mặt tập hợp ở phòng họp của phi đoàn ngay sau đó. Buổi họp chỉ kéo dài năm phút. Th/tá Hùng tiếp: PÐ-518 được lệnh đem phi cơ và biệt phái cho Ðà Nẵng, Vùng I, một tuần. Tất cả Phi Long có hai tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Th/tá Trát, Phi đoàn phó, sắp xếp các phi tuần bay ra Ðà Nẵng. Phi đoàn chia làm năm phi tuần và mỗi phi tuần bốn chiếc khu trục. Tất cả phi công rời phòng họp. Tôi phóng nhanh để liên lạc người em vợ trong căn cứ và nhờ em chuyển tin đi biệt phái về vợ tôi. Tôi trở về phòng để lấy những gì cần thiết cho bảy ngày biệt phái, rồi ghé qua câu lạc bộ và ăn vội một dĩa cơm trưa truớc khi trở lại phi đoàn. Tất cả phi công có mặt lần lượt ra phi cơ và cất cánh đi Ðà Nẵng.

Ðây là lần đầu cả phi đoàn được biệt phái xa. Không ai biết cái nguyên nhân của chuyến đi. Nhưng mọi người đều liên tưởng đến cái nhu cầu khẩn thiết về hỏa lực hùng hậu của phi đoàn và khả năng tác chiến của phi công và phi cơ. Tôi thoáng nghĩ, rồi đây người dân lành vô tội phải trả một giá khá đắc cho cuộc chiến mà Cộng sản gọi “giải phóng miền Nam”. Chúng không ngần ngại chui trốn trong dân, dùng dân làm bia đỡ đạn và rồi tuyên truyền những gì bất lợi cho phía Quốc gia. Cộng sản đến đâu gieo tang tóc đến đó!

Cái không khí mát mẻ trên cao độ bình phi xoa dịu cái nóng chói chang trên bãi đậu phi cơ và làm khô đi cái lưng tẩm ướt mồ hôi. Nhng áng mây trắng bồng bền dưới đôi cánh nhẹ nhàng trôi qua trên nền xanh biếc của biển Ðông. Dãy Trường sơn hướng Tây im lìm nhấp nhô núi đồi. Ôi, miền Nam tươi đẹp!

Phi tuần bắt đầu giảm cao độ, hợp đoàn sát cánh của bốn chiếc khu trục trông thật hùng hồn, như được đơn vị địa đầu giới tuyến chào mừng. Sau ba tiếng rưỡi, tất cả phi cơ đến nơi an toàn vào lúc bốn giờ chiều. Chúng tôi được chuyển đến hai căn nhà di động (trailers) gần bãi đậu phi cơ, đó là chỗ tạm trú cho phi đoàn trong mấy ngày tới.

Hai chiếc pick-up trucks màu xanh chở chúng tôi đến một nhà ăn trong căn cứ cho bữa cơm chiều lúc sáu giờ. Ðây là ba cơm vui nhộn nhất từ trước đến giờ với s họp mặt của tất cả các Phi Long. Không ai nghĩ đến chuyện không may sẽ xảy đến, nhưng rồi đây một vài người trong chúng tôi sẽ ra đi vĩnh viễn trong mấy ngày tới. Trong khi chờ đợi thức ăn, chúng tôi thưởng thức những ly trà đá sau một ngày thiếu nước. Kẻ nói người nghe trong bầu không khí ồn ào của nhà ăn. Vinh hay đùa để trấn an đồng đội trước những phi vụ nguy hiểm với câu: “Nghĩ đến đạn bắn lên làm gì?  Chưa chi đã rét thì còn đánh đấm thế quái nào được?!”

Sau bữa cơm chiều, chúng tôi họp tại Phòng hành quân Không đoàn để nghe thuyết trình về tình hình chiến sự, thời tiết và địa thế vào lúc tám giờ tối. Ðây là mùa thời tiết xấu trong năm mà CSBV dùng nó để mở đầu cho cuộc “Tổng Tấn Công” nhằm mục đích chiếm trọn Vùng I. Bọn chúng vượt vĩ tuyến 17 với nhiều chiến xa T-54, PT-76 và Quân xa, cùng nhiều Sư đoàn Chính quy (304, 308, và 3 Trung đoàn Bộ binh, 5 Trung đoàn pháo. Trong khi ta chỉ có 3 Trung đoàn Bộ binh và 1 Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến) đánh chiếm các căn cứ ta ở phía Bắc và Tây Bắc Thị xã Đông Hà (phía Tây Bắc Quảng Trị) trong mấy ngày qua. Ðoàn chiến xa Cộng quân đang hướng về Ðông Hà trên Quốc lộ 1 như chỗ không người. Sư đoàn 1 KQ không thể s dụng phi cơ phản lực chiến đấu A-37 vì thời tiết xấu. Buổi họp kết thúc lúc chín giờ tối, một ngày biệt phái trôi qua.

Ngày thứ hai đã làm cho CSBV biết thế nào là hỏa lực PÐ-518. Cộng quân không còn được ưu đãi với thời tiết xấu như mấy ngày qua, hay định mệnh đã an bài cho kẻ xâm lăng. Vào lúc ba giờ chiều thời tiết bắt đầu tốt từ Ðà Nẵng đến Ðông Hà. Những đám mây trắng nhỏ ở cao độ năm ngàn bộ. Tất cả phi cơ A-1 được điều động cất cánh. Phi tuần do tôi hướng dẫn là phi tuần thứ nhất trên mục tiêu với hai chiếc AD-6, mỗi chiếc được trang bị 6 trái 500 cân. Sau khi liên lạc phi cơ L-19 trên vùng để nhận tin về mục tiêu, phi tuần cách thị xã Ðông Hà năm dặm. Ðông Hà nằm về hướng Bắc sông Miêu Giang. Một chiếc cầu đúc bắt qua sông Miêu Giang trên Quốc lộ 1 hướng về Quảng Trị (xem bản đồ trận chiến). Tôi nhận ngay mục tiêu là một đoàn xe hơn 100 chiếc, nối sát nhau dài khoảng 3 cây số về phía Tây Bắc Ðông Hà. Chiếc T-54 dẫn đầu cách đầu cầu 300 thước. Tôi quẹo trái về hướng Tây để điều chỉnh vòng đánh theo trục Tây Bắc xuống Đông Nam dọc theo Quốc lộ 1, quẹo trái sau khi thả bom, và đánh 10 chiếc xe tăng đầu trong khi phi cơ số hai đánh những chiếc tăng kế tiếp. Sau lần thả thứ hai, đang lúc kéo phi cơ lên, một tiếng nổ long trời, chiếc phi cơ bị nẩy lên. Tôi hốt hoảng, không biết chuyện gì, nhưng nghĩ ngay là chiếc cầu Ðông Hà đã được quân bạn cho mìn nổ xập. Tôi thấy phòng không từ đoàn xe và những cụm khói đen 37 ly trên bầu trời. Chúng tôi thả hết bom lên đoạn đầu đoàn xe và rời mục tiêu để bảy phi tuần A-1 kế tiếp vào đánh suốt buổi chiều hôm đó. Chiến xa BV tìm đường tẩu thoát ra hai bên Quốc lộ một cách chậm chạp và khó khăn do sự cản trở lưu thông, phía Đông và Tây của Quốc lộ 1 hầu hết là ruộng lúa, trừ đoạn đầu của đoàn xe. Tất cả các phi công đã hoàn tất nhiệm vụ giao phó trong tinh thần hăng say, bất chấp phòng không và trở về đáp an toàn.

Ngày thứ ba 6-4-72, thời tiết trên vùng rất tốt. Sau một đêm CSBV mất hết tinh thần và cố tìm đường tránh không tập, các chiến xa ẩn núp dưới nhng tàng cây to, nhưng không che dấu được cặp mắt phi hành đoàn quan sát. Phi tuần của tôi có mặt trên mục tiêu vào lúc tám giờ rưởi sáng cho hai mục tiêu, gồm bốn chiến xa dưới một tàng cây gần bờ sông ở hướng Đông Quốc lộ 1, và một chiến xa ở hướng Tây. Phi tuần phá hủy hai mục tiêu dễ dàng. Phi cơ bị trúng một viên phòng không 12.7 ly ở phần che bánh đáp bên phải, và được tìm thấy lúc vào bãi đậu.  Nhiều phi tuần kế tiếp thanh toán các chiến xa ở hướng Tây và Tây Bắc Ðông Hà. Th/tá Hùng oanh kích nhiều chiến xa ở 6 cây số về phía Tây Bắc Ðông Hà. Phi cơ của Ông bị trúng đạn phòng không, Ông cố lái phi cơ ra khỏi mục tiêu, phi cơ mất dần cao độ và cuối cùng bị cháy. Ông nhảy dù và lái chiếc dù về phía Nam Ðông Hà. Cộng quân bắn theo chiếc dù, nhưng may cho Ông và cuối cùng được quân bạn tiếp cu.

Ngày thứ tư 7-4-72, Cộng quân tiếp tục di chuyển về hướng Tây Ðông Hà trong rừng cây cao để tìm đường vào mạn Nam sông Miêu Giang. Các phi tuần khu trục tiếp tục truy kích địch về hướng Tây Ðông Hà. Ð/úy Phan Quang Tuấn sau khi hạ nhiều chiến xa và không may cho anh, chiếc phi cơ bị phòng không địch bắn rớt, không bóng dáng của chiếc dù, không một lời giã biệt, anh đã ra đi và để lại bao thương tiếc. Tôi được lệnh đi lấy một chiếc khu trục đáp khẩn cấp ở Quảng Ngải vì lý do kỹ thuật, nên mất một phi vụ hành quân.

Thời tiết bắt đầu xấu trở lại, không một phi vụ nào được thực hiện trong ngày 8-4-72. Sáng ngày 9-4-72, các chiến xa đã di chuyển xuống hướng Nam sông Miêu Giang gần chân núi và tiến về hướng Đông, đồng thời huy hiếp một Căn cứ QLVNCH nằm về hướng Tây Nam Ðông Hà khoảng 7 cây số. Phi tuần của tôi gồm hai chiếc A-1 được trang bị mỗi chiếc 6 trái 500 cân, cũng là phi tuần đầu tiên được điều động cất cánh lúc chín giờ sáng. Thời tiết rất xấu bắt đầu từ Huế, phi tuần hạ dần cao độ và bay dọc theo bờ biển với cao độ thật thấp vừa đủ thấy bờ biển trong lúc xuyên qua một đám mưa. Thật nguy hiểm! Thông thường phi vụ nầy phải được hủy bỏ vì thời tiết, nhưng vì nhu cầu khẩn thiết của quân bạn, sự nhiệt tâm của phi công, tôi tiếp tục hướng về mục tiêu. Sau ba phút phi tuần ra khỏi mưa, lấy cao độ và sắp đến Ðông Hà. Tôi liên lạc Phi cơ quan sát và nhận rõ mục tiêu là 20 chiến xa đang dàn hàng ngang về hướng Tây và cách Căn cứ 200 thước. Trần mây dầy đặc ở cao độ 1.900 bộ đã làm cho vũ khí mang theo không mấy thích ứng với mục tiêu vì phi tuần cần có một độ cao tối thiểu để thả bom cho chính xác, nếu được trang bị hỏa tiễn chống chiến xa thì tốt hơn. Phi tuần vừa đến mục tiêu thì các chiến xa xã khói đen chạy về hướng Tây. Chúng tôi vào thả hết bom ngay tức khắc trước khi chúng chạy vào bìa rừng, phi tuần xuyên qua màn lưới phòng không của địch. Khi kéo phi cơ lên, cả hai chúng tôi đều bị chui vào mây nhưng đã gở ra được. Phi tuần kế tiếp do Ð/úy Chín hướng dẫn cũng báo cáo phòng không của địch bắn lên rất mạnh. Anh nói chưa bao giờ thấy phòng không bắn nhiều như vậy trong cuộc đời bay bổng của anh và tưởng sẽ bị rớt trong phi vụ nầy. Phi tuần thứ ba do Ð/úy Trần Thế Vinh dẫn, tiếp tục thanh toán mục tiêu, sau khi đánh hết bom anh còn dùng đến đại bác 20 ly. Không may cho anh, đây là phi vụ cuối cùng trong nghiệp bay của anh. Phi đoàn mất thêm một Phi Long tài ba lỗi lạc trong chuyến biệt phái nầy.

Ngày mai là ngày đổi phi hành đoàn, PÐ Khu truc cánh quạt 514 từ Biên Hòa gồm biệt đội 12 phi công ra thay chúng tôi, đây cũng là lần biệt phái cuối cùng cho Đà Nẵng. Tôi cũng được biết một số anh em trong PÐ-514 kể lại, CSBV rất lo sợ mỗi khi có phi cơ khu trục đến mục tiêu. Một Phái đoàn Mỹ từ hạm đội đến thăm viếng Phi đoàn khu trục, họ rất ngạc nhiên trước những phi vụ mà Phi công A-1 đã thực hiện trong thời tiết rất xấu và gọi các phi công “những người làm xiệc trên không.”  Lực lượng xâm lăng của CSBV đã bị QLVNCH dập nát và không còn khả năng chiếm Vùng I trong cuộc “Tổng Tấn Công”. Do bản thống kê của phòng Quân báo, Ð/úy Trần Thế Vinh hạ 21 chiến xa, tôi, Ð/úy Lành hạ 17 chiến xa và Ð/úy Trương Phùng hạ 16 chiến xa ...(Trương Phùng đã hy sinh cho Tổ quốc rạng sáng 29-4-75 tại phi trường Tân Sơn Nhất). Tôi đuợc chọn và đại diện cho KQ để tham dự lễ chiến thắng tại Sài Gòn (Tôi là một trong ba mươi chiến sĩ xuất sắc từ các  binh chủng, về thủ đô Sài Gòn họp ra mắt, dự lễ Mừng Chiến Thắng do chính quyền và tư nhân khoản đãi sau trận chiến thắng vẻ vang của quân ta trong Hè Đỏ Lửa tháng Tư năm 1972. Đặc biệt là buổi ăn trưa long trọng với nhiều quan khách trong dinh Độc Lập, nơi Tổng thống ở và làm việc. Tôi cùng bảy quân nhân khác được hân hạnh ngồi cùng bàn tròn với Ông và Bà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi còn nhớ một câu, Bà Tổng thống ca ngợi Ông: “Tất cả các bài diễn văn là do chính Ông soạn thảo”. Sau đó các chiến sĩ xuất sắc được ân thưởng nghỉ mát ở Đài Loan 5 ngày).

Về phía ta, Bộ Tư Lệnh KQ đã quyết định đúng lúc và kịp thời gởi hai Phi đoàn khu trục để tăng cường hỏa lực cho vùng địa đầu giới tuyến và đối phó với thời tiết xấu trên mục tiêu vì Phản lực cơ A-37 ở Ðà Nẵng không thể sử dụng đuợc. Với kinh nghiệm của phi công và tầm chính xác của khu trục cơ A-1 đã gây thiệt hại nặng nề cho CSBV. Một khuyết điểm nhỏ là vũ khí mang đến mục tiêu đôi khi không thích ứng với thời tiết trên mục tiêu. PÐ-518 thực hiện 52 phi xuất và thả 78 tấn bom trong chuyến biệt phái. Hai phi công PÐ-518 đã hy sinh cho Tổ quốc và ba chiếc A-1 bị bắn rớt.

Về phía CSBV họ đã thua trận, hàng chục chiến xa bị đánh tan nát hoặc hư hại, cùng với sự thiệt hại nặng nề về nhân mạng. Họ trốn chạy khi thấy phi cơ xuất hiện, điều nầy cho thấy tinh thần chiến đấu của họ bị sa sút. Vị tướng chỉ huy của họ không có kế hoạch an toàn cho đoàn xe hơn trăm chiếc khi thời tiết bắt đầu tốt, dĩ nhiên là đoàn xe đã bị một trận mưa bom trong ngày đầu ở gần Ðông Hà. Tôi có cảm tưởng như trận Trân Châu Cảng khi quân Nhật đánh bom vào hạm đội Mỹ ở Hạ Uy Di (Hawaii). Cộng quân thiếu khả năng và yếu kém về chiến thuật để làm vô hiệu việc đặt mìn, phá xập cầu Ðông Hà của quân ta, trong khi Cộng quân cần chiếc cầu nầy để đoàn xe đi qua. Với chiến thuật “rừng” của các tướng lãnh đã đưa CSBV đi vào chỗ chết và thảm bại.

Tuy thời gian trôi qua theo năm tháng, nhưng lòng tôi không quên sự chiến đấu oai hùng, dũng cảm và sự hy sinh của người lính Cộng Hòa để bảo vệ tự do và an lành cho người dân miền Nam. Chúng ta xin thắp nến hương lòng và nguyện cầu cho hương linh người quá cố sớm siêu thoát.  Người lính Không Quân cho dù mai một bao giờ cũng thể hiện tinh thần “Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”.

* Cựu Phi đoàn trưởng Tr/tá L.Q.Hùng hiện ở Georgia sau hơn 13 năm tù cải tạo.
* Cựu Phi đoàn phó và 21 Phi Long hiện sống rải rác trên các tiểu bang Hoa Kỳ.


Bản Đồ Đông Hà


Phi Đoàn Phi Long 518 (chưa đến nửa nhân số Phi đoàn, hình chụp vào cuối năm 1972 với tân Phi Đoàn Trưởng N.Q. Vĩnh)

Hàng đứng từ trái:  P.V. Lượm, Tác giả, T.V. Khiển, N.V.Chín, N.V.Tùng, N.T. Bá

Hàng ngồi từ trái:  N.V. Chuyên, L.V. Long, N.Q.Vĩnh, N.V.Hai, P.M. Xuân, L.V. Bé



Những Phi Vụ Skyraider

Phi tuần nhẹ gồm hai phi cơ, phi công bay chiếc số 1 gọi là Phi tuần phó (Lead) người dẫn phi tuần nhẹ thực hiện phi vụ, và có trách nhiệm cho phi tuần. Phi tuần phó được trải qua một khoá huấn luyện công phu và được quyết định của Bộ Tư Lệnh KQ.  Phi công bay chiếc số 2 goị là Phi tuần viên (Wingman) người nhận và thi hành chỉ thị Phi tuần phó. Phi tuần trưởng hướng dẫn từ 4 phi cơ trở lên, phải có bằng Phi tuần phó, 500 giờ bay khu trục và trải qua một khóa huấn luyện công phu. Hầu hết các phi vụ hành quân yểm trợ tiếp cận cho quân bạn trên chiến trường miền Nam được thực hiện với phi tuần nhẹ. Skyraider là phi cơ lý tưởng để thả các loại bom và cả CBU-55*, loại nầy nặng từ 500 - 750 cân cho A-1 với tầm xác haị từ 60 m x180 m cho mỗi trái và chỉ dùng cho “phòng thủ”, và đôi khi dùng phá “chốt” địch trong các trận đánh lớn. Skyraider mang bom nhiều hơn các phi cơ phản lực A-37B và F-5A/B, loại nầy mang 4 trái 500 cân, và một đại liên 6 nòng 7.62 ly cho A-37B. Skyraider có vận tốc chậm, mang bom nhiều, bay lâu trên vùng làm việc và thích ứng với thời tiết xấu, thêm vào đó là độ chính xác khá cao khi thả bom. Skyraider là phi cơ lý tưởng để yểm trợ tiếp cận cho Lục quân. Trong điều kiện lý tưởng, phi công A-1 thả bom không sai mục tiêu quá 15 m. Một quả bom chính xác phải hội đủ các yếu tố như: độ chúi, tốc độ phi cơ, cao độ thả bom, hướng và tốc độ gió. Một số đông phi công Skyraider già dặn sang bay A-37 và F-5 vào những năm 1968. Skyraider được mệnh danh là con “Trâu Điên”, rất khó lái và từng gây khiếp đảm cho Cộng quân trên khắp chiến trường. Phi đoàn khu trục có khoảng 28 nhân viên phi hành và 24 phi cơ. Thành phần Chỉ huy phi đoàn từ trên xuống: Phi đoàn trưởng, Phi đoàn phó, Trưởng phòng hành quân, Sĩ quan an phi, Sĩ quan huấn luyện. Trong Phi đoàn Khu trục, thành phần phi công còn lại được chia thành 4 Phi đội, mỗi Phi đội gồm 5 hay 6 phi công tùy thuộc đơn vị có nhiều hay ít phi công. Tối thiểu là một văn thư cho mỗi phi đoàn. Phi công Khu trục làm việc 3 ngày, nghỉ một ngày. Mỗi ngày làm việc thường có hai phi vụ. Nếu bay một phi vụ trong ngày, hoa tiêu phải bay hay trực hành quân đêm. Ngoài phi vụ hành quân, hoa tiêu được huấn luyện cho đẳng cấp cao, cho an phi, bay thử phi cơ vừa sửa xong, còn là huấn luyện viên cho Phi tuần phó, và bay thử để điều chỉnh hệ thống thả bom BOBS do đài ra-đa hướng dẫn (B-52 dùng hệ thống BOBS để thả bom...)  Điểm đặc biệt là phi công A-1 với cấp bậc cao, nhưng giữ chức vụ thấp vào những năm sau cùng cuộc chiến, so với các đơn vị bành trướng nhanh như trực thăng hay phản lực. Trong phạm vi bài, tôi chỉ ghi lại những phi vụ Skyraider đặc biệt.


Phi Vụ Yểm Trợ Tiếp Cận

Yểm trợ tiếp cận có thể hiểu là phi cơ khu trục thả bom gần quân bạn, vì hai bên bạn và địch rất gần.  Vào hè năm 1971 ở tỉnh Hậu Nghĩa, một đơn vị bạn giao tranh với Cộng quân, hai bên cách nhau bởi con đường đất đỏ. Hôm đó phi tuần của tôi gồm hai khu truc cánh quạt A-1 Skyraider trang bị 6 trái bom 500 cân cho mỗi chiếc. Chiếc số hai, phi tuần viên, là một Th/úy, tôi không nhớ tên, mới ra hành quân không lâu cho nên tôi chỉ thị cho số hai đánh xa ra mục tiêu từ 150 m trở ra. Theo sự yêu cầu của quân bạn, bom phải rớt gần con đường đất đỏ về hướng Tây, trong khi quân bạn ở hướng Đông con đường vào khoảng 50 m. Chúng tôi mở tần số FM để nghe quân bạn và phi cơ quan sát nói chuyện trong suốt thời gian thả bom. Phi cơ quan sát bắn rocket khói trắng đánh dấu mục tiêu, cùng lúc quân bạn thả khói xanh cho biết vị trí của mình. Trái bom đầu tiên cách con đường về hướng Tây 50 m do sự ảnh hưởng của gió. Quân bạn phản ứng trên tần số FM ngay và khẩn thiết yêu cầu đánh sát vào con đường với lời lẽ mà tôi chưa bao giờ nghe trong những lần thả bom yểm trợ cho quân bạn trước đây: “Thà chúng tôi chết dưới bom đạn của mình, còn hơn chết dưới súng đạn Việt cộng tối nay”. Bây giờ là mười giờ sáng. Nhưng tôi vẫn dè dặt thi hành nhiệm vụ để giúp quân bạn, còn việc thả bom có phương hại đến quân bạn là điều không thể thực hiện. Nếu có sự đáng tiếc xảy ra, phi công phải ra tòa án quân sự hoặc ở tù. Tôi kéo dần từng trái bom vào con đường sau mỗi lần thả và lắng nghe trong tần số với sự thỏa mãn của quân bạn. Tôi nhớ trái bom sau cùng không cách xa con đường bao nhiêu. Số hai thả xa mục tiêu để vớt mấy Cộng quân nhanh chân tránh bom.  Sau khi hết bom, chúng tôi xuống thấp và bắn bốn lần hết tất cả 1,600 viên đaị bác 20 ly vào sát con đường, có những viên lạc lên đường làm tốc bụi đỏ. Thường thì những viên đạn nầy ít khi sử dụng, chỉ để bảo vệ một trong hai phi cơ lâm nạn, hay những mục tiêu đặc biệt. Như vậy, phi tuần không còn gì để tự bảo vệ. Chúng tôi may mắn không bị phòng không 12.8 ly chiếu cố. Đây là vùng có nhiều phòng không, nhưng không làm sao thấy chúng bắn lên trong lúc bận rộn thả bom, hơn nữa chúng ngụy trang khéo léo.

Nguyên tắc căn bản không thể thiếu được cho cuộc hành quân Lục quân là yểm trợ phi pháo. Trong trường hợp quân bạn ngoài tầm pháo yểm, không yểm lại quan trọng hơn. Chỉ một phi tuần khu trục có thể chuyển bại thành thắng trong trận chiến nhỏ. Vì vậy, phi công cảm thấy phấn khởi trong lúc làm việc với quân bạn trên chiến trường. Tiếng nói chân tình giữa hai binh chủng Không Lục trước sự sống chết trên chiến trường khốc liệt đã gây cảm thông giữa hai binh chủng, quyết tâm diệt thù. Làm sao nói hết sự cảm thông giữa hai binh chủng trong cuộc chiến khốc liệt đầy ngập máu rơi, thịt nát nầy! Trước khi rời mục tiêu, quân bạn cám ơn nồng nhiệt, vì chúng tôi can đảm thi hành nhệm vụ và thỏa mản yêu cầu khẩn thiết của họ. Người Lính Không Quân đem xương máu xung phong vào trận mạc, yểm trợ quân bạn, mang lại niềm tin và tiết kiệm xương máu cho quân bạn trên khắp chiến trường. Không phải phi công bị khóa chân vào chiến cụ như địch thường áp dụng.



Phi Vụ Đêm

Phi vụ trực đêm gần như mỗi tuần một lần để thi hành phi vụ hành quân khi cần. Phi hành đoàn trực gồm hai phi công, phải có mặt ở phi đoàn lúc bảy giờ tối cho đến sáng hôm sau. Phòng ngủ cho phi hành đoàn có máy điều hoà không khí. Mỗi lần trực đêm tôi không tránh khỏi cái không khí yên tĩnh gần như lẻ loi nơi phần sở, và cố tình ngủ sớm để có thể đi bay trong đêm, nhưng hình ảnh Mai lại đến. Tôi quen Mai trong lần thăm người bạn tại sở làm với Mai. Mai làm kế toán cho hãng Hàng không VN và học Anh văn ban đêm, nơi mà chúng tôi hẹn hò sau giờ học… Cái tuổi mơ mộng yêu phi công không khác gì phi công say mê lái phi cơ, như những cánh chim tư do tung mây lướt gió giữa trời xanh, là tinh cầu bay trong đêm dưới những vì sao lấp lánh. Đã đến lúc, tôi phải lập gia đình, cho dù chiến tranh tàn khốc vẫn tiếp diễn, không như quan niệm của những năm trước đây. Mai vượt qua sự lo sợ trở thành góa phụ và chấp nhận làm vợ phi công, để ngày ngày lo âu cho cánh chim trên chiến trường khói lửa trở về tổ ấm trong an toàn. Chúng tôi kết hôn sau một năm gắn bó yêu thương.

Tất cả phi vụ đêm trên chiếc Skyraider đều khó khăn và nguy hiểm. Chiếc số hai gặp nhiều khó khăn hơn trong phi vụ đêm, vì phải theo sát số một nhất là khi phi tuần đi vào mây, mưa. Từ ngày tốt nghiệp ở Mỹ, về bay phi cơ quan sát hơn hai năm cho đến khi trở lại bay Skyraider, tôi chưa có một lần được huấn luyện hay ôn lại phi cụ, hoặc cách thức gở phi cơ ra khỏi vị thế bất thường bằng cách dùng phi kế. Không có “check out*” đánh đêm, nhưng vẫn trực bay đêm và thi hành phi vụ, cho nên một số phi công gặp khó khăn và bị vertigo*. Phải chăng đây là thông lệ của đơn vị và tôi tự cảnh giác với câu “hồn ai nấy giữ”. Trường hợp nầy có thể giải thích là phi cơ khả dụng quá ít cho nhu cầu hành quân, hơn nữa huấn luyện không là ưu tiên hay người có trách nhiệm quên đi phần việc quan trọng nầy… Thông thường, khi thả bom đêm phải có phi cơ vận tải thả trái sáng, thường là ở gần cao độ với phi cơ khu trục. Phi công khu trục thấy mục tiêu và thế đất như trời nhá nhem tối, lúc mặt trời vừa lặn, tạm đủ để thả bom như ban ngày. Vertigo xẩy ra khi bay trong đêm, mây hay mưa, phi công không thấy đường chân trời hay thế đất để điều khiển phi cơ, chỉ phải tin và dùng phi cụ để bay hoặc đưa phi cơ trở về vị thế bình phi, nếu ở trong vị thế bất thường. Nói chi đến nhào xuống kéo lên thả bom đêm mà không có phi cơ thả trái sáng, cho dù có trái sáng leo lét của tiền đồn, chỉ là trò đùa với tử thần. Đó là trường hợp yểm trợ cho tiền đồn Tống Lê Chơn (TLC). Quân Đoàn yêu cầu SĐ3/KQ mỗi đêm một phi vụ yểm trợ cho đồn TLC. Tôi và số hai đã một lần phải dùng phi kế để gỡ phi cơ ra khỏi vị thế bất thường. Tại sao họ không cho phi vụ thả bom trong lúc trời nhá nhem tối mà phải đợi một giờ sau để thả đêm? Xin nhường phần việc nầy cho các cấp Chỉ huy.  (Tiền đồn TLC ở phía Tây An Lộc bị cô lập 17 tháng. Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công nhưng không thành, chi bằng giử vậy để nhận mấy kiện hàng tiếp tế do vận tải cơ thả từ trên không bị gió đưa lạc ra ngoài đồn). Một Th/ úy phi công (xin mạn phép không nêu tên) bị vertigo vì cảm thấy không điều khiển phi cơ theo ý mình và chọn mở dù tự động, nhưng hỏa tiễn của dù không khai hỏa. Cuối cùng phi công tiếp tục lái và đưa phi cơ vào vị thế bình phi an toàn. Vertigo có thể xẩy ra cho bất cứ ai. Trong trường hợp khác, tôi trực đêm với Th/tá Ninh de Gaulle. Vào lúc hai giờ khuya chúng tôi ra cất cánh, nói là thời tiết trên mục tiêu tốt, nhưng trần mây ở Biên Hòa là 1.800 bộ. Tôi bay chiếc số hai và vào hợp đoàn sau khi cất cánh. Số một bắt đầu lấy cao độ và vô mây. Sau khi bay được vài phút trong mây, số một báo bị vertigo. Tôi đột nhiên bảo số một vào phi cụ. Từ đó tôi không còn nghe số một trên tần số. Khi tôi trở về đáp với bom và được biết số một đã đáp trước đó. Thật may mắn cho cả hai! Chiếc A-1 khá nặng với bom đạn nên mất cao độ nhanh, phi công chỉ có khoảng thời gian rất ngắn, mấy giây đồng hồ để đưa phi cơ về vị thế bình phi, đó là trường hợp nhẹ và có cao độ. Sau này cố Th/tá Nguyễn V Ninh hy sinh cho Tổ quốc trong phi vụ yểm trợ quân bạn. Cố Đ/u Trần S Công hy sinh cho Tổ quốc trong phi vụ bay đêm yểm trợ phi trường Phan Rang tháng Tư 1975. Xin nghiêng mình tưởng niệm đến hai vị anh hùng. Câu “Ăn cơm dưới đất, làm việc trên trời” nói lên sự nguy hiểm của nhân viên phi hành. Thả bom đêm rất nguy hiểm, phi công cần được huấn luyện và mục tiêu phải có đầy đủ trái sáng. Tôi không nhầm chỉ trích ai mà chỉ nói lên sự hiểm nguy đến với phi công Skyraider. Phi tuần viên bay với tôi luôn luôn thể hiện tinh thần kỷ luật trong lúc thi hành nhiệm vụ trên chiến trường và cũng chưa có phi tuần viên nào làm crash hay bỏ mình trong các phi vụ bay huấn luyện hay hành quân. Như vậy, tôi tự cho là Phi tuần trưởng mát tay và muốn gợi lên đó là sự kết hợp của may mắn và tài năng đã có trong thời gian bay bổng. Cảm nghĩ gì khi đi hai về một? Thật khó trả lời!  Nếu có, đó là nổi đau lòng mãi trong tôi.

Phi công Skyraider còn thực hiện nhiều phi vụ yểm trợ cho các toán Biệt kích. Một biệt đôị Skyraider nhỏ được biệt phái đến phi trường Pleiku vào những năm 70-71 để bay bao vùng cho phi cơ trực thăng đưa và rướt các toán Biệt kích.


Màn Đêm


Bảng Phi cụ A-1H, AD-6


Phi Vụ BOBS   (Beacon Only Bombing System)

Vào năm 1973, một số ít phi công khu trục được huấn luyện BOBS, đa số là Phi tuần trưởng. Đài nầy đặt tại Biên Hòa, dùng ra-đa và tín hiệu dẫn phi cơ đến mục tiêu để thả bom. Người điều khiển đài liên lạc phi cơ và dẫn phi cơ bay vào đường bay cho mục tiêu được chọn của đài. Các tín hiệu đít-đa hay đa-đít phát ra để chỉ phi cơ lệch trái hay phải đối với đường bay. Tín hiệu vội vã chỉ phi cơ lệch càng lúc càng xa đường bay và tín hiệu chậm lại khi phi cơ gần vào đường bay. Tín hiệu đa-dài khi phi cơ trên đường bay và tín hiệu đa-dài phải có khoảng 10 giây cuối cùng mới được thả bom qua tiếng click thứ 3 (sau khi tiếng đa-dài tắt bắt đầu 3 giây còn lại qua 3 tiếng click).

Phi tuần trực đêm của tôi được đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại từ phòng HQCC/KĐ23 vào lúc hai ba giờ sáng. Tôi bật dậy trong đôi mắt cay xé với thân hình uể oải sau giấc ngủ say để ghi nhận chi tiết cho phi vụ. Phi tuần viên là Tr/u Đào Công Quận, người chưa bay BOBS trước đây. Chúng tôi lấy nón bay, mặt áo lưới đầy đủ dụng cụ cấp cứu phi hành, đeo dây dù…rồi đi bộ ra bãi đậu phi cơ gần đó. Cho dù thế nào đi nữa, giờ nầy chúng tôi cũng tỉnh rói và sẵn sàng trong sự dè dặt cho phi vụ. Trong đêm mọi cử động dường như chậm lại, tôi đi một vòng quanh phi cơ với đèn pin để kiểm soát cơ phận trong điều kiện an toàn, rồi dùng hết sức mình phóng lên cánh phi cơ, trước khi vào phòng lái. Người cơ trưởng giúp gài dây dù, sau khi tôi đặt người lên ghế phòng lái, rồi vội vã leo xuống. Dấu hiệu quay máy của tôi được đáp ứng bởi ánh đèn cầm tay của anh. Chong chóng nặng nề xoay rồi vụt nhanh khi máy nổ. Mùi khét lẹt của khói gần như quen thuộc. Tôi thử vô tuyến với chiếc số hai và xin đài chỉ thị di chuyển. Người cơ trưởng chào tạm biệt và chờ đợi sự trở về an toàn của đôi cánh chim. Hai phi cơ di chuyển chậm chạp trong đêm tối ra đầu phi đạo và được trang bị bom nổ, mỗi chiếc 6 trái 500 cân. Sau khi cất cánh, tôi lấy cao độ và bay một vòng ở Biên Hòa để kiểm soát và điều chỉnh phi kế và cũng là lúc để người lái hòa mình trong đêm đen. Cái cảm giác an bình dưới ánh đèn rực rỡ và lưu luyến của thành đô chẳng mấy chóc sẽ để lại phía sau và đôi cánh chim lạnh lẽo, im lìm đi vô màn đêm u tịch.

Tôi liên lạc tần số …và được biết đây là phi vụ BOBS. Trong thời gian đài dẫn phi tuần vào đường bay, tôi nói với số hai là tôi sẽ nhắc lúc để bom và thả. Phi tuần tiếp cận đường bay với cao độ 7.000 bộ. Số hai bay thật nhuyễn trong hợp đoàn sát cánh đã làm cho tôi an tâm. Đôi đầu cánh của hai phi cơ cách nhau và trên dưới không quá hai mét. Tôi dán mắt vào các phi kế dưới ánh đèn mờ sáng trong phòng lái nhỏ hẹp, bao trùm bởi đêm đen, sự vận chuyển của phi kế nói lên vị thế phi cơ trong không gian hay ngược lại. Tôi theo dõi tín hiệu, giử phi cơ trên đường bay và thỉnh thoảng nhìn sang kiểm soát sự hiện diện chiếc số hai. Tiếng động cơ và tín hiệu là âm thanh duy nhất cho đôi cánh chim đến chân trời vời vợi. Hôm nay thời tiết tốt, phi tuần không gặp khó khăn. Sau khi vào đường bay, tôi nhắc số hai để bom. Có thể nói, khi phi cơ lệch đường bay 10 m là có tín hiệu điều chỉnh.  Một tiếng đa dài khoảng 10 giây tiếp theo là tiếng click 1, 2, 3, tôi hô to “thả”. Phi vụ hoàn tất khoảng 15 phút từ khi liên lạc đài BOBS. Chúng tôi không biết tính chất mục tiêu, chỉ nghe tiếng dội lại của bom trong lúc lấy hướng trở về Biên Hòa. Sau khi đáp, chúng tôi ngủ tiếp cho đến sáng.


Phi Vụ Không FAC   (Air Forward Controller)

Vào đầu năm 1974, tôi được chỉ định bay phi vụ thả bom bằng cách đến vùng làm việc, tìm mục tiêu được chỉ định để oanh kích, không phi cơ quan sát hướng dẫn và không có quân bạn. Hai chiếc A-1 được trang bị bom nổ. Tr/u Nguyễn T. Bá bay chiếc số hai. Chiều ngày hôm trước, chúng tôi đến Phòng Quân báo Không đoàn để nhận hai bản đồ tỷ lệ 1/250.000 có đánh dấu mục tiêu. Chúng tôi không biết tính chất mục tiêu. Mục tiêu nằm về Tây Bắc An Lộc (AL) khoảng 8 phút bay. Nghe mà thích, sao nó đơn giản và dễ dàng như vậy. Chúng tôi cũng không nghe nói đến phòng không, mặc dù trong thời điểm nầy, CSBV đưa nhiều phòng không đủ loại kể cả hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 vào Nam. Chúng tôi không có thuyết trình nào về phi vụ nầy thì làm sao có phi cơ trực thăng cứu cấp trong trường hợp lâm nạn. Người có thẳm quyền chỉ biết cắt phi vụ qua yêu cầu cấp trên, mình là người thi hành phi vụ, có trách nhiệm đưa bom đến mục tiêu. Tôi có cảm nghĩ “đem con bỏ chợ” vì không ai quan tâm đến phi vụ, vậy tôi cũng có thể bay trên cao ngang qua mục tiêu và cho bom rớt xuống, nhưng không làm vậy. Tại sao tôi là người thi hành phi vụ nầy?

Chúng tôi chọn lối đánh truy kích và bất ngờ để phòng không địch không có thì giờ trở tay. Kết thúc cho phi vụ tiền phi là phải làm gì khi một chiếc bị bắn rớt. Nếu chúng tôi được chọn thời gian đánh thì bình minh vẫn là lý tưởng, nhiều bất ngờ hơn và hy vọng bọn“vẹm” còn đang ngủ. Nhưng không, chúng tôi được gọi ra đi vào lúc 9 giờ sáng. Sau khi cất cánh, phi tuần bay đến An Lộc, nhưng giảm cao độ thật nhanh khi sắp đến AL. Từ AL đến mục tiêu phi tuần bay ở cao độ 700 bộ, mặc dù thế đất cao thấp khác nhau từ 200 đến 400 bộ trên lộ trình, hướng 320 độ, tốc độ 180 knots/giờ cho 8 phút bay. Tôi bắt đầu ghi giờ và theo dõi hướng bay  từng phút. Phi cơ lướt nhanh trên ngọn cây qua thế đất cao, thấp. Tôi tự cảnh giác mình cẩn thận. Chiếc số hai trong hợp đoàn lơi xa cùng cao độ. Phút thứ sáu chúng tôi bắt đầu để vị trí bom, cơ chế và đội hình thả bom. Phút thứ bảy chúng tôi lấy cao độ và tìm mục tiêu. Mục tiêu được nhận ra ở hướng 10 giờ (phía trước cánh trái) và được báo ngay cho số hai. Mục tiêu là rừng cây cách bờ sông 50 mét có bãi cỏ xanh. Trong lúc lấy cao độ tôi điều chỉnh vòng đánh. Sau một phút phi cơ có đủ cao độ, tôi vào thả hết bom. Chiếc số hai tiếp tục thả ngay sau đó. Sau khi kéo phi cơ lên, tôi quẹo gắt để tìm số hai và thấy nhiều đóm khói đen trên bầu trời, đó là đạn phòng không 37 ly nổ cùng cao độ thả bom. Mặc dầu đánh nhanh nhưng vẫn bị phòng không. Chúng tôi may mắn trở về căn cứ an toàn. Phải chăng cuộc chiến đã đến thời kỳ bắt chúng ta đáp ứng cho nhu cầu một cách lều lĩnh và đặt nhẹ vấn đề an phi?

Cuộc chiến ngày càng leo thang và khốc liệt, phòng không địch ngày càng gia tăng. Không Quân Việt Nam gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm hơn trong việc yểm trợ quân bạn. Phi công VNCH cố chiếm chiến công đôi khi vượt ra ngoài lãnh vực an phi, và gan dạ hơn bao giờ hết. 


AD-6 (A-1H) ở Biên Hòa


Khu Trục Yểm Trợ An Lộc trong Hè Đỏ Lửa  (1972)

An Lộc (AL), một địa danh không những quen thuộc với người dân miền Nam từ tháng 4 năm 1972 mà còn nổi bật trên thế giới, nhất là giới quân sử, qua trận tử thủ khốc liệt 68 ngày của quân ta.  Nhiều nhà quân sử so sánh trận An Lộc không kém các trận chiến lịch sử của thời Thế chiến. Người Mỹ hãnh diện về trận Khe Sanh vào tháng 3 năm 1968 sau 72 ngày tử thủ, cho nên quân dân miền Nam cũng hãnh diện với chiến thắng ở An Lộc. An Lộc, một tỉnh lỵ nhỏ với dân số hơn sáu mươi ngàn ở hướng Bắc Sài Gòn khoảng 100 Km. Hướng Bắc AL có Lộc Ninh, Nam là Chơn Thành, Lai Khê và Bình Dương trên cùng Quốc lộ 13. An Lộc thuộc Vùng III Chiến thuật dưới sự yểm trợ của 3 Sư đoàn (SĐ) Bộ binh: 5, 18 và 25 cùng 3 đơn vị lưu động. Sư đoàn 5 ở Lai Khê trách nhiệm về vùng Bắc, SĐ18 ở Xuân Lộc trách nhiệm vùng Đông và SĐ25 ở Tây Ninh trách nhiệm vùng Tây. Bản doanh Quân Đoàn III đặt tại Biên Hòa. Những đơn vị tăng phái cho chiến trường An Lộc gồm SĐ21 và Trung đoàn 15/SĐ9 từ Vùng IV, Lữ đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù.

Cộng sản Bắc Việt (CSBV) tung 3 Công trường (Sư đoàn của một vùng): 5,7 và 9 cùng với 2 Trung đoàn 202 và 203 tăng, tổng số gần bốn chục ngàn quân đến từ biên giới Cambuchia cho cuộc Tổng Tấn Công vào AL, đầu tháng 4 năm 1972. Các tiền đồn của ta gần biên giới lần lượt thất thủ trong mấy ngày đầu, tiếp theo là quận lỵ Lộc Ninh thất thủ vào ngày 6-4-1972. Công trường (CT) 5 sau khi chiếm Lộc Ninh tiến về hướng Nam trên QL 13 đánh bung một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 52/SĐ18, Tiểu đoàn còn lại lui về An Lộc. Trong khi CT9 tiến đánh An Lộc từ hướng Tây và CT7 đóng “chốt” tại Tàu Ô trên QL 13, đồng thời chận đường tiến quân của ta đến tiếp tay cho AL.      

An Lộc đứng vững là nhờ sự chiến đấu anh dũng đến giọt máu cuối cùng của người lính Cộng Hòa, trong đó chúng ta phải kể đến sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân Việt-Mỹ. Trong phạm vi bài nầy, tôi xin ghi lại những phi vụ yểm trợ của phi cơ Khu trục thuộc SĐ3KQ bên cạnh các đơn vị KQ tham chiến tại An Lộc.

Sư đoàn 3 KQ gồm những phi đoàn:
-2 Phi đoàn Quan sát 112 và 124
-2 Phi đoàn Khu trục cánh quạt Skyraider 514 và 518
-Phi đoàn Khu trục phản lực 522 (F-5A)
-Phi đoàn Trực thăng Chinook 237, 4 Phi đoàn Trực thăng UH-1 (221, 223, 231, 245) và một Biệt đội tản thương 259E.

Sư đoàn 5 KQ gồm những phi đoàn tham dự trận An Lộc:
-Phi đoàn 819 (AC-119G)
-3 Phi đoàn Vận tải (421,423 và 425) C-123
-Biệt đội Trinh sát 716 (EC-47D) 
Một số Phi công Quan sát và Trực thăng biệt phái từ Vùng IV.
Không quân Hoa Kỳ gồm Quan sát, A-1 Skyraider, F-4, C-130, AC-130 Specter và B-52.

Không quân VNCH đã chứng minh sự lớn mạnh, kinh nghiệm và hữu hiệu qua sự yểm trợ An Lộc và đã thi hành tất cả những phi vụ giao phó một cách nghiêm chỉnh và can đảm trước hỏa lực phòng không CS đáng ngại. CSBV dùng phòng không 12.8 ly, 37 ly và SA-7, một số cán binh cộng sản leo lên ngọn cây cao bắn vào đoàn trực thăng vỏ trang, chuyển quân, tiếp tế và tản thương. Các phi đoàn trực thăng đã đóng góp hữu hiệu vào cuộc chiến và cũng đón nhận thiệt hại khá to, đáng kể nhất là PĐ-223 gần như xoá sổ. Sau khi 2 chiếc Chinook (CH-47) bị bắn rớt, thành phần yểm trợ tiếp vận trên không được KQVN C-123 đảm trách kể từ ngày 12 tháng Tư. C-123 chỉ thả dù tiếp vận chính xác ở cao độ thấp, nhưng lại bị cản trở bởi phòng không. Chiếc C-123 đầu tiên bị bắn rớt ngày 15 tháng 04 và chiếc thứ hai vào ngày 19-04-72. Kể từ 21-4-72, KQ Mỹ đảm trách yểm trợ tiếp vận bằng C-130 với kỹ thuật HALO (high altitude, low opening) thả từ 20.000 bộ cao, dù tự động mở từ 500 đến 800 bộ cao. Sau vài tuần thụ huấn lối thả mới (BOBS), phi cơ vận tải VN trở lại yểm trợ An Lộc. Trinh sát điện tử (EC-47D) dò tần số, theo dõi điện đàm của VC.... AC-119G trang bị 4 Minigun 6 nòng với tốc độ bắn 6.000 viên 1 phút. Đại úy Trần Văn Tám ghi nhận không những bay đêm mà còn cả phi vụ ban ngày. Anh thấy rõ VC mặt quần cụt chạy như kiến trên mục tiêu giữa QL 13 và đường rầy xe lửa phía Tây An Lộc. Anh hạ thấp cao độ và bắn cho đến hết đạn trước khi rời mục tiêu. Phi công quan sát bay hằng giờ trên mục tiêu, biết rõ vị trí bạn cũng như địch và hướng dẩn phi công khu trục đánh chính xác và hiệu quả vào mục tiêu mà quân bạn đang đối đầu.

Hai phi đoàn khu trục cánh quạt Skyraider cùng với phi đoàn khu trục phản lực F-5 yểm trợ cho An Lộc. F-5 mang 4 trái 500 cân và A-1 Skyraider mang 6 trái 500 cân hay 12 trái 250 cân cho mỗi phi cơ, phi công A-1 rất ít sử dụng 4 cây đại bác 20 ly mà chỉ dành cho trường hợp khẩn cấp, như yểm trợ cho chiếc bị rớt hay nhận rõ tính chất mục tiêu. Mỗi phi đoàn có khả năng thi hành trung bình từ 14 đến 16 phi xuất trong ngày. Mặc dầu chiến trường An Lộc bắt đầu sôi động, nhưng Bộ Tư Lệnh KQ quyết định tăng phái PĐ-518 của chúng tôi ra Đà Nẵng 7 ngày, kể từ ngày 4-4-72 cho chiến trường Quảng Trị. Nơi đó, Đ/úy Trần Thế Vinh và Đ/úy Phan Quang Tuấn đã hy sinh cho Tổ quốc. PĐ-522 và PĐ-514 yểm trợ quân bạn trong những ngày đầu cuộc chiến ở An Lộc. Ngày 6-4-72, Đ/úy Trần Văn Mười PĐ-514 dẫn phi tuần đến Lộc Ninh, phía Bắc AL, đã ghi nhận nhỉều phòng không 12.8 ly bắn lên kèm theo đạn lửa (tracer) và những đóm khói đen trên bầu trời của phòng không 37 ly từ các ụ phi cơ trong phi trường, sau khi VC vào Lộc Ninh. Việt cộng rất ít dùng đạn lửa trừ khi vị trí bị lộ hay có lợi thế trong tay. Anh ghi nhận chưa bao giờ thấy nhiều phòng không bắn lên như vậy trong cuộc đời bay bổng. Ngày 10-4-72, PĐ-514 gởi một Biệt đội 12 phi công ra Đà Nẵng thay PĐ-518. Chiều ngày 11-4-72, Đ/úy Nguyễn Văn Chín PĐ-518 dẫn phi tuần 2 A-1 với 6 bom nổ 500 cân và chiếc số 2 là cố vấn Mỹ Bennet mang 6 trái bom xăng đặc (Napalm) 500 cân, chận đánh đoàn xe tăng 5 chiếc trên QL 13, khoảng giữa Lộc Ninh và An Lộc. Đ/úy Chín ghi lại, các tăng chạy thật nhanh, mặc dầu bị phủ đầu bởi những trái bom lửa với chiến thuật thả thấp 50 m trên đầu tăng để gây hiệu quả tối đa. Ông Bennet chịu chơi hết mình! Lâu lâu mới bay một phi vụ, lại là lần đầu gặp 5 tăng thì còn gì sung sướng cho bằng, chẳng khác chi “lân thấy pháo”. Cũng may là không bị SA-7. Vì thắc mắc, Đ/úy Chín hỏi lính Dù về việc sao tăng có thể chạy được với sức nóng giết người như vậy? Lính Dù cho biết, khi đạp chân ga vào là tăng ngừng lại, ngược với tăng VNCH.  Không biết đây là lời nói chơi hay nói thật?

Buổi sáng ngày 12-4-72 lúc 10 giờ, tôi dẫn phi tuần 2 A-1 mang 6 trái 500 cân cho mỗi chiếc và có mặt ở phía Bắc An Lộc 2 km. Số 2 là một Tr/úy nhưng tôi không nhớ tên. Mục tiêu là 3 chiếc tăng chạy thật nhanh từ khu rừng già, băng qua đồng cỏ tranh trống trải đến An Lộc. Sau khi chúng chạy được 2 km thì bị chận đánh, những quả bom rớt thật gần tang, nhưng không chận được 3 tăng, cuối cùng có hai chiếc đâm vào vòng đai thành phố AL, còn chiếc thứ 3 quay đầu chạy ra hướng Đông Bắc và sau cùng đâm xuống con sông. Phải chăng chân ga bị bỏ không?

Ngày 17-4-72, biệt đội của PĐ-514 trở về sau 7 ngày biệt phái, hợp tác với PĐ-518 và PĐ-522 để thực hiện những phi vụ dọc theo hai bên QL 13 gần An Lộc và Tàu Ô. Ba phi đoàn khu trục thực hiện trung bình 46 phi xuất mỗi ngày cho phía Tây, Tây Nam An Lộc, đồi 169, đồi Gió nằm về phía Nam An Lộc 3 cây số và Tàu Ô. Th/tá Nguyễn Văn Phong hay “Phong già” thộc PĐ-518, xuất thân từ hạ sĩ quan và cao niên hơn chúng tôi khá nhiều, vẫn bay “mút mùa” như  anh em khác. Anh ghi nhận: “tất cả các phi công bay hai phi vụ mỗi ngày”. Số phi xuất nầy còn tùy thuộc vào số phi cơ khả dụng do hai Đoàn Bảo trì và Vũ khí đảm trách. Họ làm việc ngày đêm để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của chiến trường. Tuy tầm vóc không so bằng người Mỹ, nhưng biết khai thác dụng cụ đúng mức và kinh nghiệm có thừa đã hoàn tất nhiệm vụ giao phó trong thời gian tối thiểu.

Việt cộng dùng nhiều phòng không 12.8 ly, SA-7 và số ít 37 ly với những đóm khói đen ở trên không. Phi cơ như những con chim sắt nhào xuống, kéo lên, làm bia cho Cộng quân nhả đạn và “đạn tránh phi cơ, phi cơ không tránh đạn”. Các vị trí phòng không được ngụy trang khéo léo và không dùng đạn lửa, cho nên chúng tôi không bị áp đảo tinh thần mà bình tĩnh trong lúc vào thả bom. F-5 có nhiều lợi thế hơn qua hai yếu tố tốc độ nhanh và thả bom ở cao độ cao. Th/tá Nguyễn Đình Lộc F-5 ghi nhận thời tiết trên mục tiêu không mấy khả quan.

Các phi vụ yểm trợ cho quân bạn gần như ở cùng vị trí từ ngày này sang ngày khác nhiều nhứt về hướng Nam, Tây-Nam An Lộc 3 km vì đôi bên tranh giành từng tấc đất. Hằng chục tấn bom do ba phi đoàn khu trục mang đến mục tiêu mỗi ngày và nện lên đầu bọn khát máu “sinh Bắc tử Nam” gần sát với quân ta, nhưng không một trái bom nào lạc vào quân bạn. Đôi khi trên tần số FM chúng tôi nghe được lời yêu cầu của quân bạn là đánh sát hơn vào họ một chút nữa. Nhưng vì sự chính xác và sức công phá của quả bom không cho phép phi công vượt qua tầm giới hạn tối thiểu. Hai Trung đoàn CS, 147/CT7 và 275/CT5 đẩy lui Lữ đoàn Dù ở đồi 169 và đồi Gió ngày 19/4/72. Trong lúc yểm trợ cho Tiểu đoàn Dù ở đồi Gió, phi cơ của Đ/úy Phạm Văn Huệ (PĐ-514) bị trúng phòng không địch, anh nhảy dù và bị bắt làm tù binh. Sau đó không lâu, anh được thả qua chương trình trao trả tù binh ngày 13-3-1973.

Công trường 5 và 9 quần thảo với bốn ngàn lính VNCH tử thủ trong An Lộc. Những người lính Cộng hòa quyết đem xương máu bảo vệ từng tấc đất cho thành phố đổ vỡ do trăm, ngàn trái đạn pháo trong ngày. Vào đầu tháng 5/72, Cộng quân đem hai Trung đoàn 141 và 165 thuộc CT7 từ Tàu Ô đến Nam và Tây Nam An Lộc để hợp tác với thành phần còn lại của CT5 và CT9, quyết chiếm tỉnh lỵ nầy trong vài ngày, nhưng không quá một tuần. Đó là lời hứa của Tuớng lãnh đạo CT5 với Bắc Việt.

Phi cơ B-52 chiến thuật lại được tận dụng trong những ngày tới. Hơn một tháng qua, B-52 đã cày nát vùng phía Tây Quốc lộ 13 trong nhiều cây số vuông ở Tây An Lộc và Tây Tàu Ô. Đó là vùng khai hoang trước đây, những thân cây khô giờ ngã xuống được thay bằng một vùng đất đỏ với những hố bom khổng lồ. Cũng trong thời gian nầy, SĐ21 Bộ binh được tăng cường và tiến chiếm Tân Khai trên QL 13, cách An Lộc 10 km để làm đầu cầu yểm trợ pháo cho An Lộc. Trung đoàn 15/SĐ9 VNCH từ vùng IV đến Tàu Ô ngày 15-5-72. Trong thời gian cao đỉnh này, với sự yểm trợ hữu hiệu của KQVN, người lính VNCH quyết tử thủ An Lộc và liên tục đẩy lui các cuộc tấn công khốc liệt từ 11 tháng 5 đến 14 tháng 5. Cộng quân liên tục thất bại và thất vọng trong việc chiếm An Lộc, họ buộc phải kéo TĐ141/CT7 trở về Tân Khai.

Đ/úy Nguyễn Thế Qui dẫn phi tuần, chiếc số hai là Đ/úy Nguyễn Cao Hùng/PĐ-514 đánh nhiều chiến xa ở Tân Khai ngày 20 tháng 5. Cộng quân cố quấy phá đầu cầu pháo và lập chốt chận mức tiến quân cuả ta. Phi cơ của Đ/úy Hùng bi SA-7, phi công gan dạ đã làm tròn sứ mạng cho Tổ quốc với khẩu hiệu “T-Quốc Không-Gian.” Anh đã thoát khỏi phi cơ nhưng chiếc dù định mệnh lại không mở. Kính chúc hương linh Đ/úy Hùng sớm siêu thoát, vãng sanh miền cực lạc.

Tinh thần chiến đấu của người lính Cộng hòa lên cao điểm. Tuy VC bắn hạ được vài phi cơ nhưng không làm tê liệt sự yểm trợ hữu hiệu của ba phi đoàn khu trục Phượng Hoàng PĐ-514, Phi Long PĐ-518 và Thần Ưng PĐ-522, thêm vào AC-130 specter và nhiều phi vụ trải thảm của B-52. Ba phi đoàn thực hiện 46 phi xuất hay 55 tấn bom mỗi ngày. Công sản thất bại trong việc phòng không ở An Lộc. Phi đoàn khu trục bị thiệt hại nhẹ so với số phi xuất thực hiện cho chiến trường An Lộc. Cộng quân bị thiệt hại nặng, không còn đủ khả năng mở những cuộc tấn công đáng kể sau ngày 26 tháng 5, rút khỏi vòng chiến trong đầu tuần tháng 6 năm 1972 và để lại mười ngàn xác. Chúng chọn An Lộc là liều lĩnh vì hậu cần của chúng ở xa, trong khi căn cứ Biên Hòa gần An Lộc, mỗi phi vụ chỉ mất một giờ bay.

Người lính Không quân chiến đấu dũng cảm đi vào vùng lửa đạn để hoàn tất nhiệm vụ giao phó và bình thản trước sự hiểm nguy. Trên chiến trường người lính Lục quân cảm tử xung phong tiêu diệt địch, chiếm mục tiêu, trong khi phi công VNCH dũng cảm xuyên qua màn lưới phòng không và pháo của địch để đáp, cứu, chuyển tiếp liệu, di tản thương binh, thám sát mục tiêu, bắn phá, thả bom… sau khi phi công nghiên cứu mục tiêu, điạ thế, thời tiết, hướng tiến vào và ra... Công việc làm đầy thử thách trước sự sống chết xảy ra trên khắp chiến trường. Phi công VNCH không từ chối phi vụ khó khăn và nguy hiểm, họ thường họp và bàn tính với nhau để tìm một phương cách khả dĩ cho phi vụ đặc biệt qua một số phi công “Tự nguyện”. Những phi công nầy thi hành phi vụ thập tử nhất sinh, và hy vọng trở về sau phi vụ rất mong manh. Khi bay khu trục, phi công chỉ là Thiên Lôi, phi cơ quan sát chỉ đâu tôi đánh đó và may là trong thời gian gần 5 năm, tôi và phi tuần viên chưa có trái bom hay viên đạn nào lạc vào quân bạn. Phi cơ khu trục không thả bom trong thành phố AL, mà chỉ thả yểm trợ các tiểu đoàn bạn chống trả địch quân ngoài thành phố bị vây hãm. Trong khi Cộng sản rót bừa bãi  trăm, ngàn hỏa tiễn 122 ly và đại pháo vào AL mỗi ngày, gây thương vong cho quân ta và người dân vô tội.

Chúng ta đã hát, hát mãi và lớn theo từng bước chân như những ngày còn ở quân trường với câu “Đi không ai tìm xác rơi…” (Không Quân Hành Khúc). Thêm vào chiến thắng vang lừng của quân dân miền Nam ở An Lộc trong Hè Đỏ Lửa vẫn chưa làm sáng mắt người Mỹ trong việc bán đứng miền Nam qua Hiệp Định Ba Lê ngày 27-1-1973. An Lộc trở nên vùng đất lịch sử sau 68 ngày chống trả với bọn xâm lăng khát máu, dưới chiêu bài giải phóng miền Nam do đàn anh Nga, Tàu chủ xướng. Xương máu người lính Cộng Hòa đánh đổi bằng tấc đất và Tự do cho người dân miền Nam Việt Nam.



Chiến Trường An Lộc (4/1972)




SĐ3KQ Yểm Trợ Tái Chiếm
Căn Cứ 82 và Đồn Rạch Bắp
(1974)


Đồn Rạch Bắp và Căn cứ 82 (CC82) mỗi nơi có khoảng một Đại đội Điạ Phương quân trú đóng, ở về hướng Tây Bắc Sài Gòn khoảng 40 Km, và hướng Tây Sư đoàn 3 Không quân (SĐ3KQ) khoảng 30 Km.  Đồn Rạch Bắp ở hướng Tây CC82 khoảng 5 Km, cả hai nằm trên Tỉnh lộ 7. Căn cứ  82 ở hướng Tây Bến Cát khoảng 6 Km (Bến Cát ở trên QL 13), và cũng là phần cực Đông mật khu Tam Giác Sắt. Mật khu có nhiều hang hầm, buị rậm, phòng không 12.8 ly và SA-7.

Nhiều phi công thuộc SĐ3KQ đã quen thuộc đồn Rạch Bắp và CC82 do những lần yểm trợ trước đây trong nhiều năm qua. Không quân nói chung, SĐ3KQ nói riêng đã hãnh diện tham dự yểm trợ quân bạn trong cuộc chiến tử thủ An Lộc muà hè năm 1972 và đã gây cho ba Sư đoàn CS 5,7 và 9 thiệt haị nặng nề. Sau hai năm phục hồi và chấn chỉnh, ngày 16-05-1974, Cộng quân tung hai Trung đoàn 95C và 272/SĐ9 BV, cùng chiến xa và pháo binh đánh chiếm đồn Rạch Bắp, CC82, và Thị xã An Điền (Tây Bến Cát 1.5 Km) trong ngày kế tiếp, với chủ đích tiến gần thành phố, đặt Sài Gòn và Căn cứ Không quân Biên Hoà trong tầm đạn pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly.

Không quân được điều động trong đêm với AC-119 trang bị 4 súng minigun 6 nòng và các phi tuần khu trục A-1 trực đêm ngay sau đó. Nếu không có phi cơ thả trái sáng, phi công A-1 có thể dùng trái sáng của tiển đồn hay bay qua sự hướng dẫn của đài BOBS. Xin được nhắc đến hỏa lực hùng hậu của SĐ3KQ, Sư đoàn được thành lập vào tháng 5 năm 1970 tại Biên Hoà dưới sự chỉ huy tài giỏi và liêm chính của Đại Tá Huỳnh Bá Tính (Ông được thăng cấp Chuẩn Tướng sau đó). Sư Đoàn 3KQ yểm trợ các cuộc hành quân do Quân đoàn III thực hiện, gồm 3 Không đoàn Chiến thuật: 23, 43 và 63. Tất cả là 16 phi đoàn, gồm 2 Phi đoàn Quan sát, 2 Phi đoàn Khu trục A-1, 7 Phi đoàn Trực thăng và 5 Phi đoàn Phản lực F-5.  Phi công quan sát với nhiệm vụ quan sát mục tiêu, liên lạc quân bạn, hướng dẫn pháo binh và phi cơ khu trục đánh chính xác vào mục tiêu địch. Phản lực F-5 mang 4 trái Mk82, với tốc độ bay nhanh, phải dùng cao độ cao khi thả bom, nên ít khi gặp trở ngaị phòng không, nhưng thường bị giới hạn thời tiết. Trong khi phi cơ A-1 mang 6 trái Mk82, bay chậm, thả bom ở cao độ thấp, khá chính xác, ít bị giới hạn thời tiết, nhưng lại là mục tiêu tốt cho các loại phòng không CS. Trực thăng võ trang được trang bị hỏa tiễn và đại liên sáu nòng, yểm trợ trực thăng đổ quân vào bãi đáp và đơn vị bạn.

Trận chiến đồn Rạch Bắp, CC82 và An Điền trong hè năm 1974 được coi là lớn nhứt trong năm do sự tham dự cấp Sư đoàn Bộ binh của ta và địch, vì gần SĐ3KQ, nên không yểm cho chiến trường khá phong phú. Với quân số gấp bội, Trung đoàn (TĐ) CS không gặp khó khăn trong việc chiếm đồn Rặch Bắp, CC82 và An Điền. Cộng quân bị chận đứng tại thị xã An Điền. Phi vụ đầu tiên cuả tôi gồm một phi tuần hai chiếc Skyraider, mỗi chiếc trang bị 6 trái 500 cân, đến mục tiêu vào buổi sáng, sau đêm thất thủ của đồn Rạch Bắp. Thật ngạc nhiên khi nghe Phi công quan sát cho lệnh thả bom vào đồn Rạch Bắp. Chuyện khó tin vì chưa bao giờ gặp phải. Chúng tôi như “Thiên Lôi” chỉ đâu đánh đó và chỉ biết đưa bom vào mục tiêu theo sự yêu cầu. Trong khi phòng không địch đua nhau bắn vào phi cơ trong lúc thả bom, như những lần trước đây, phi công dũng cảm thi hành nhiệm vụ, cố đưa bom đạn chính xác vào mục tiêu và không có thời gian quan sát các ổ phòng không được ngụy trang khéo léo. Phi công khu trục không làm gì được hơn là thây kệ nó! Chúng tôi đều có số, xui ai nấy chiụ! Bao giờ có dịp “chọi” nhau mới biết kẻ thua người thắng, nhưng đừng chơi trò khóa chân vào súng (!?) Hai phi vụ kế tiếp do tôi thực hiện mấy ngày sau đó cho CC82 và An Điền.

Nhiều phi công SĐ3KQ, bay yểm trợ cho Sư đoàn 18 Bộ binh, Thiết đoàn và 3 Tiểu đoàn BĐQ tái chiếm An Điền. Cộng sản phòng thủ An Điền kiên cố, TĐ52/SĐ18 bị thiệt hại khi tiến quân vào hướng Đông An Điền. Mãi đến ngày 2-6-74, TĐ48/SĐ18 tiến từ Nam, TĐ52 tiến từ Đông, và 3 Tiều đoàn BĐQ tiến từ Bắc tái chiếm và giải tỏa An Điền. Trung đoàn 95C cộng sản bị thất bại nặng, để lại nhiều vủ khí và tù binh mới vào từ Bắc. Những tù binh nầy cho biết có vài Tiểu đoàn CS gần như xóa sổ do sự chiến đấu gan dạ của quân ta và phi pháo. Nhưng, quân ta không giải tỏa được CC82, vì CS dùng nơi nầy tử thủ với sự yểm trợ đại pháo CS 130 ly. Sư Đoàn 3 KQ với hoả lực hùng hậu, thực hiện nhiều phi vụ thám sát, yểm trợ tiếp cận, thả bom vị trí nghi ngờ đặt pháo 130 ly. Trung đoàn 52 và Chi đoàn 2/5 Thiết kỵ (CĐ2/5TK) tiếp tục giử An Điền gần 3 tháng, sau cùng SĐ5BB và TĐ10KB (Thiết đoàn 10 Kỵ binh) đến thay thế vào đầu tháng 9/74 để tái chiếm CC82 và đồn Rạch Bắp. SĐ5BB, TĐ10KB và 3 Tiểu đoàn BĐQ mới nguyên vẹn, với tinh thần thừa thắng xông, lên đánh bật hai Trung đoàn CS 95C và 272, tái chiếm CC 82 vào ngày 4-10-74 và giải toả đồn Rạch Bắp ngày 20-11-74.

Vào đầu tháng 10-74, cái xui đến với tôi trong phi vụ đánh bom tái chiếm CC82. Vì đồn khá kiên cố cho dù bị bom đạn ta phá hủy trước đây, nhưng vẫn là vị trí phòng thủ khá tốt cho CS. Khoảng 10 giờ sáng, bầu trời thật tốt, hai chiếc A-1 do Tr/úy Trần V. Khiển, người mới ra Phi tuần phó, anh được dẫn phi tuần hai phi cơ. Chiếc số 1 mang 6 trái Mk82, còn tôi bay số 2 mang 6 trái Napalm. Kỹ thuật thả bom Napalm gọi “Skip bombing” cho được nhiều kết quả, phi công phải bay thật thấp gần ngọn cây để quả bom trải dài sau khi nổ, thay vì gom lại một chỗ, nếu thả từ trên cao. Vào những năm 70 và 71 tôi vẫn bay “Skip bombing” trong các phi vụ cho chiến dịch Toàn Thắng ở Campuchia. Về sau nầy không một phi công nào làm “Skip bombing”, chỉ thả từ trên cao như thả bom nổ Mk82 để tránh né phòng không, nhất là SA-7. Trên tần số, tôi xin số 1 thả hết bom nổ và bao vùng cho tôi vào làm “Skip bombing”. Cùng lúc, Đại Tá Nguyễn Văn Tường, biệt danh “Tường mực,” (Ông đã từ trần ở California) vị Sư đoàn phó SĐ3KQ, đang bay trực thăng C&C (phi cơ chỉ huy chiến trường) trên cùng tần số. Ông bảo: “Thằng nào gan quá vậy!” và đưa phi cơ C&C vào gần mục tiêu để xem “Skip Napalm.” Như cảm tử xung phong của người lính, tôi bất thình lình đưa phi cơ nhào xuống từ cao độ 4500 bộ (ft) để tránh phòng không, phi cơ rớt nhanh như khối sắt trong vài giây đồng hồ, và được kéo lên sát ngọn cây với tốc độ kinh khủng. Tôi thả hết bom vào CC82, và giữ cùng cao độ thấp bay về hướng Bến Cát cách mục tiêu 5 Km, phần đất của ta. Khoảng 5 dây đạn lửa 12.8 ly bắn theo phi cơ từ phía sau. Những dây đạn nầy lần lược lùi dần về phía sau phi cơ vì tầm đạn đã hết. Tưởng cũng nên nhắc, khi xạ thủ phòng không thấy chắc ăn họ không ngại dùng đạn lửa (viên thứ 5 trong dây đạn) để dẫn đường nhắm. Trong cùng lúc tôi nghe trên tần số “Đ.m thằng nào đánh đẹp quá, cho biết tên!?” Tôi không trả lời được vì phải ra khỏi chỗ nguy hiểm nầy cho được an toàn (về sau mới biết đó là lời Ông Tường mực) Khi phi cơ đến Bến Cát, tôi bắt đầu lấy cao độ, quẹo gắt bên phải tránh SA-7, đồng thời khám phá ra một vệt trắng phía sau phi cơ khoảng 1Km, mặc dù kéo mạnh cần lái để tách rời SA-7, nhưng không hiệu quả. Trong cái chớp mắt, phi cơ trúng phải SA-7 và bắt đầu rớt ở cao độ 500 bộ. Tôi giựt dây dù tự động, chất nổ phá vở canopy (phần trên phòng lái bằng plastic) tiếp theo là hỏa tiễn dù khai hỏa, kéo phi công ra khỏi phi cơ. Tôi bất tỉnh cho đến khi dù bung ra cách mặt đất khoảng 400 ft và nghe vài tiếng súng nhỏ bắn từ dưới đất. Sao đó, dù chạm đất trên ruộng lúa. Cùng lúc, chiếc phi cơ trực thăng C&C đáp xuống để cứu tôi. Số tôi lớn như lời Phi đoàn trưởng PĐ 518, Nguyễn Quan Vĩnh kể lại. Thật vậy, phi cơ A-1 quá cũ và hệ thống dù không còn tin tưởng mấy vì trước đây có vài phi công chết vì dù không mở. Tôi hoàn toàn không nhớ gì, cho đến sáng ngày hôm sau, khi mở mắt ra và thấy mình đang nằm trong bệnh xá sư đoàn. Sau nầy, Ông Vĩnh cho biết: “tôi vẫn đi đứng, mang cả “D ring” (tay nắm của dù tự động) về, mặt có nhiều vết trầy do sức nổ phá canopy, và được xe cứu thương đưa về bệnh xá”. Tôi rời bệnh xá sau một ngày được theo dõi sức khoẻ, và thêm hai ngày nghỉ trước khi trở lại đơn vị để tiếp tục phi vụ hằng ngày.

Không quân vẫn mãi là người bạn thân với binh chủng Bộ binh. Ở đâu có chiến trường là có không yểm! Phi công hào hùng “Đi không ai tìm xác rơi,” và luôn đề cao trách nhiệm vì họ đã mang trên người chiếc áo bay với phù hiệu “Tổ Quốc Không Gian” và đôi khi gần như liều lĩnh trong lửa đạn, phá cả luật an phi trong thời tiết xấu, cũng không ngoài ý nghĩ đơn thuần là làm thoả mản nhu cầu khẩn thiết của quân bạn. Biết đâu trong những lần như vậy, họ phải hy sinh, hay đã giúp quân bạn chận đứng địch thù, hoặc chiếm trọn mục tiêu. “Ôi phi công danh tiếng muôn đời!” (Không Quân Hành Khúc) câu hát bất hủ đậm lòng Chiến sĩ không gian.


Bản Đồ Bến Cát



Phi Vụ Hành Quân Cuối Cùng

(27-04-1975)

Để ghi lại cuộc thư hùng giữa đội phòng không Cộng sản và phi tuần Khu trục A-1 (Skyraider) của tôi vào ngày 27-04-1975. Để chia sẻ với thân nhân những người đã bị CS giết sau ngày 30-04-1975 mà bọn CS cho họ là những người mang “Nợ máu”


Trong cuộc đời bay bổng, mỗi phi công có một chuyến bay cuối cùng. Chuyến bay đó có thể là một chuyến bay bình thường, nhưng đôi khi lại là một chuyến bay mà phi công không bao giờ quên, hay một chuyến bay vĩnh viễn ra đi để lại bao thương tiếc!

Cuộc chiến tự vệ của người miền Nam mang đầy chính nghĩa, trong khi bọn Cộng sản Bắc Việt đã trắng trợn xâm lǎng dưới chiêu bài giải phóng miền Nam! Miền Nam trù phú, tự do, và phát triển theo đà vǎn minh thế giới, đáng lẽ được cơ hội giải phóng miền Bắc mới phải?  Hàng lớp thanh niên tha thiết với lời kêu gọi của Tổ quốc, yêu chuộng tự do và quyết tâm bảo vệ đất nước đã gia nhập các binh chủng, các cơ quan công quyền, các đoàn thể … để góp phần bảo vệ quê hương, xứ sở. Tôi là một trong những người đã rời bỏ mái trường thân yêu, xa gia đình và để lại phía sau cuộc sống phồn hoa, thi hành nhiệm vụ người trai trong thời chiến.

Không quân là binh chủng mà tôi xếp vào hàng đầu cho sự chọn lựa, mc dầu tôi chưa biết gì về KQ hay các ngành nghề khác. Cái vốn liếng của tôi chỉ là một mớ vǎn hóa từ nhà trường. Tôi gia nhập KQ vào tháng Mười nǎm 1964 sau cuộc khám sức khỏe hết sc gay go. Tôi cùng hai người nữa được chọn vào ngành phi hành trong số hơn hai mươi người không được may mắn. Ðây là giai đoạn thử thách đầu tiên mà phi công phải hội đủ trên tiêu chuẩn về sức khỏe.

Nha Trang là Căn cứ huấn luyện quân sự và Anh ngữ. Tôi được sang Mỹ để thụ huấn thêm Anh ngữ trước khi sang trường bay. Phi công đã trải qua nhiều giai đoạn thử thách về khả nǎng và sức khỏe trong thời gian huấn luyện. Tôi tốt nghiệp với chỉ số khu trục cánh quạt Skyraider và  được chuyển đến PÐ-524 ở Nha Trang, trong khi phi đoàn này sắp sửa đi Mỹ học chuyển tiếp phản lực cơ A-37 và sau cùng tôi được chuyển đến PÐ-114 bay L-19.

Tôi thất vọng vì phải bay phi cơ quan sát. Một số sĩ quan thâm niên trong ngành Quan sát sang Mỹ thụ huấn ngành Khu trục, khi về VN lại bay phi cơ quan sát, chuyện này cũng không có gì thắc mắc. Nhưng tôi là phi công trẻ với nhiều nhiệt huyết đáng lẽ phải được bay phi cơ khu trục. Nhiều lần nghĩ đến chuyện làm đơn xin BTLKQ để trở về ngành Khu trục, nhưng nghĩ cho cùng, mình là tân sĩ quan có ai quan tâm đến (!?) Thời gian trôi qua, mộng ước được bay phi cơ khu trục đã tàn phai như khối bǎng tan dần trong mùa hè.

Tôi bắt đầu quen với chiếc Quan Sát (L-19), (tôi gọi nó là cô “Loan 19”cho được thân tình và gắn bó với số mạng của tôi). Thân cô mảnh khảnh và tha thướt theo mây gió và lời cô êm dịu như tiếng ru. Sau mấy lần cùng cô với vũ điệu dưới trǎng sao, tôi trở thành người bạn đồng hành trên khắp vùng Cao nguyên. Chiếc L-19 nhẹ nhàng với đôi cánh rộng và lững lơ trên không như con diều hâu đang sǎn mồi, mà lũ chuột (VC) đang tìm nơi ẩn núp. Sau một thời gian ngắn, tôi được gởi sang phi đoàn quan sát Mỹ trong cùng cǎn cứ để thụ huấn cách hướng dẫn phi cơ khu trục Mỹ. Sau đó, tôi dẫn các phi tuần Mỹ oanh kích trong các chiến trường lớn. Phi công quan sát giữ vai trò quan trọng trên không, phối hợp với Không quân và Lục quân cùng với các cánh quân trên chiến trường một cách chặt chẽ và chính xác. Họ quyết định cho việc thả bom của phi cơ khu trục trong sự an toàn cho phi công và đơn vị bạn, đồng thời mang lại kết quả tối đa cho quân bạn.

Phi cơ quan sát rất hiếm bị đạn phòng không, nhưng lại dễ bị mất tích do thời tiết xấu, nhất là ở vùng Cao nguyên. Sự việc này xảy ra khi thi hành một phi vụ hành quân ở xa và nhiên liệu còn lại đủ để trở về, trong khi gặp thời tiết xấu, hoặc bay một lộ trình quá xa và gặp thời tiết xấu ở điểm đến, phi công khó mà chấp nhận một s quay trở về vì thời gian và sự giới hạn nhiên liệu. Phi công phải chuẩn bị đáp ở phi trường nào đó cho an toàn, thay vì cố vượt qua hiểm nguy.

Sau hai nǎm rưỡi với Phi đoàn Quan sát, tôi được BTLKQ gọi về Phi đoàn Khu trục cánh quạt 518, Phi Long, ở Biên Hòa vào hè nǎm 1970. Cái cảm giác vui sướng được gần gia đình, nhưng hồi hộp không biết mình còn đủ khả nǎng để điều khiển con “trâu điên” (Skyraider) này hay không?

Chiếc Skyraider cất cánh tối đa với 25.000 lbs gồm xǎng, 8 trái bom 500 lbs hay 12 trái 250 lbs, và 800 viên đại bác 20 ly. PÐ-518 với một tòa nhà cao rộng bằng gạch
trông đồ sộ. Tôi có cơ hội gặp lại bạn bè du học ngày xưa và thích cái phù hiệu Phi
Long của phi đoàn, nó được diễn tả như một con rồng nằm trên bàn đồ VN, cái
đuôi quấn lấy miền Bắc, cái đầu nhả tên lửa vào đó. Sau bốn phi vụ bay quen tay
và một phi vụ thả bom ở vùng giải tỏa, tôi bắt đầu bay hành quân. PÐ-518 đã tạo
được nhiều chiến công, đặc biệt là chiến trường bên biên giới Campuchia, Tử thủ
của Ch/tướng Lê Văn Hưng ở An Lộc, Hè Ðỏ Lửa ở Quảng Trị…Ðể vinh danh những anh hùng đã hy sinh cho Tổ quốc từ ngày tôi đến phi đoàn 15-6-1970 và kính cẩn nghiêng mình trước anh linh:

-Cố Đ/úy Nguyễn Duy Vinh khóa 64D ra đi tháng 3-1971 trong hành quân Toàn Thắng ở Miên.
-Cố Đ/úy Phan Quang Tuấn khóa 65A ra đi ngày 6-4-1972 ở Đông Hà, Quảng Trị.
-Cố Đ/úy Trần Thế Vinh khoá 65A ra đi ngày 9-4-1972 ở căn cứ Tây Nam Đông Hà 7 km, Quảng Trị.
-Cố Tr/úy Trương Hoà Thành khóa 70 ra đi ở Gò Dầu Hạ tháng 3-1973.
-Cố Th/tá Nguyễn Văn Ninh (Ninh De Gaulle) khóa 63 ra đi tháng 4-1973 ở Cai Lậy, bị SA-7 và nhảy dù, nhưng Ông  bị phòng không bắn.
-Cố Th/ tá Nguyễn Gia Tập khóa 64D cựu Phi Long, tuẫn tiết ngày 30-4-1975 tại Bộ Tư Lệnh KQ.
Biệt đội khu trục gồm sáu phi công được biệt phái cho Tân Sơn Nhất (TSN) trong nhiều nǎm qua để bảo vệ Biên Hòa khi hữu sự. Phòng không của Việt cộng ngày càng gia tăng trên các chiến trường, nhất là hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7. Các phi vụ hành quân cũng bị giảm dần trong đầu nǎm 1975 qua sự giới hạn tiếp liệu từ Mỹ. Mỗi phi vụ chỉ được trang bị phân nửa bom đạn.

Vào giữa tháng 04-1975, tôi đang biệt phái cho TSN. Một tuần sau, hai Phi đoàn Khu trục cánh quạt 514 và 518 di tản về TSN do áp lực Cộng quân đến gần Biên Hoà. Một sự bận rộn chưa từng thấy đã diễn ra hàng ngày. Phi đoàn không có phần sở chính thức để làm việc, vì vậy nhân viên phi đoàn không còn gp nhau thường xuyên. Tất cả gặp nhau trong buổi sáng để nhận phi vụ hành quân trong ngày, vì mỗi người còn phải lo cho gia đình trong lúc tạm sống ở một nơi vừa đến. Buổi sáng ngày 27-4-1975, tôi nhận một phi vụ hành quân với phi tuần hai chiếc AD-6. Tôi dẫn phi tuần, Tr/úy Nguyễn Thành Bá bay chiếc số hai. Chúng tôi thường bay với nhau vì cùng chung phi đội. Trên đường ra bãi đậu phi cơ, Tr/úy Bá ghi tần số, điểm hẹn và danh hiệu của phi cơ quan sát trên vùng. Bá lúc nào cũng tươi cười vui vẻ và đựợc bạn bè quý mến, bay bổng một cách an phi và kỷ luật, anh là phi tuần Phó.

Tôi không biết trước đặc tính của phi vụ, chuyện này cũng thường tình, nhưng điểm hẹn là Biên Hòa. Thời tiết rất tốt cho buổi sáng ngày hôm đó. Hai phi cơ được trang bị mỗi chiếc 12 trái bom 250 lbs. Sau khi cất cánh, hai phi cơ lấy hướng đến Biên Hòa với cao độ nǎm ngàn bộ và đang trên tần số riêng của phi tuần. 

-Hai, kiểm soát và báo cáo tình trạng phi cơ.
-Một, phi cơ ở tình trạng tốt
-Biên Hòa ở hướng mười hai giờ.
-Hai thấy.
-Làm gì mà xe cộ trên xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn nhiều như vậy?
-Có lẽ dân chúng di tản về Sài Gòn. 

Bỗng dưng trong tôi gợi lại hình ảnh Cǎn c Biên Hòa, nơi mà chúng tôi quây quần trong cuộc sống hàng ngày. Biên Hòa là một trong những cǎn c đồ sộ của KQ, nhưng nay không còn là nơi xuất phát các phi vụ hành quân yểm trợ cho Vùng III. Tiếc thay cho sự mất mát và thay đổi quá nhanh!

-Hai, qua tần số hành quân …
-Hai rõ.
-Thanh Xà (TX) đây Phi Long (PL) gọi.
-TX nghe PL 5 trên 5. Xin cho biết vị trí và vũ khí được trang bị.
-PL đang ở phiá nam Biên Hòa, 5 dặm, cao độ 5000 bộ, hai A-1 với 24 trái 250 lbs
-TX nhận rõ, mục tiêu của PL là một vị trí phòng không ở phía Bắc phi trường BH  khoảng 4 dặm, không có quân bạn, khi nào đến mục tiêu cho biết.
-PL nhận rõ.
-Hai có nghe FAC (Air Forward Control, nhằm chỉ L-19) không?
-Hai nghe rõ.
-TX nhận ra bạn đang trên không phận phi trường BH, khi nào sẵn sàng cho biết để TX đánh dấu mục tiêu, TX sẽ giữ hướng Nam mục tiêu, với cao độ 2.000 bộ
-PL nhận rõ.

Phi tuần đang ở trên mục tiêu, tôi chọn hướng tấn công từ Đông sang Tây để đt đối thủ trong sự khó khǎn qua ánh mặt trời của buổi sáng.

-Hai ra đội hình thả bom và cơ chế 26, 46 (2600 vòng phút, 46/56 hay 82% của động cơ), đánh từ Đông sang Tây, quẹo trái, mỗi Pass (một lần thả) hai trái và kiểm soát phi cơ lần cuối.
-Hai rõ.

Tiếng động cơ vang vội, thân phi cơ rung chuyển, tốc độ tǎng nhanh trong cơ chế tác chiến như mãnh hổ đang lao mình tấn công con mồi. Tôi trong tư thế dè dặt như thường lệ.

-TX, bạn có thể cho trái khói.
-TX vào đánh dấu mục tiêu.

Trái khói trng bốc lên gần con sông và trên một vùng rộng không cây cối, tôi quẹo gt để điều chỉnh vòng đánh.

-Yêu cầu PL đánh ngay trái khói.
-Một vào.

Tôi vừa lắc cánh vào thả thì thấy một vòng tròn lửa với đường kính khoảng 100 thước, nhiều dây đạn lửa (ở viên thứ 5 trong dây đạn) nối đuôi theo lên và bao quanh phi cơ, có dây chỉ cách phi cơ mươi thước, trong khi phi cơ chưa kịp thǎng bằng đôi cánh, tôi tiếp tục vào cho đến khi mục tiêu hiện trên máy nhắm, rồi thả hai trái, tôi biết là hơi sớm hơn hai giây đồng hồ vì bị bắn quá rát. Tôi kéo phi cơ lên 5G (Gravity-force*), mắt bị mờ mặc dầu đã làm phương pháp chống G.

-Hai vào thả bom và kéo lên an toàn. 

Phi công lead có nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn cho phi tuần trong mọi trường hợp! Tôi quyết định lấy cao độ 8.000 bộ để tạo khó khǎn cho xạ thủ phòng không, vì vậy mà độ chính xác của quả bom cũng bị giảm đi. Phi tuần không thể là mục tiêu ngon lành cho hơn 20 khẩu phòng không, vì phi cơ sẽ bị trúng đạn trước khi thả bom. Chúng bắn lên như pháo bông, có thể chân bị khoá vào chiến cụ (?). Trong khi chúng tôi tự do chiến đấu hay chọn thả một pass cho an toàn. Nhưng không, chúng tôi chọn đánh như thường lệ, thà chết trong danh dự còn hơn sống hổ thẹn, vì chiến sĩ không gian đã khoác lên người chiếc áo bay với phù hiệu “Tổ Quốc Không Gian”, trong khi cuộc chiến sắp tàn.

-Hai theo tôi lấy cao độ 8.000.
-Hai rõ.

Hai vẫn bình tĩnh thi hành nhiệm vụ và đặt tin tưởng vào sự quyết định của tôi trước sự sống chết trong đường tơ kẽ tóc. Cộng sản đã quy tụ hết phòng không trong vùng và chọn một kỹ thuật phòng không mà tôi chưa bao giờ thấy, có thể là một chiến thuật phòng không ở miền Bắc? Tôi tin là định mệnh sẽ dành cho bọn xâm lǎng. Sau hai phút lấy cao độ và điều chỉnh vòng đánh, tôi bắt đầu thả. Giống như lần trước, nhưng các dây đạn có phần chậm hơn và cách xa phi cơ đôi chút, do đó tôi có đủ thi gian đặt máy nhắm vào mục tiêu và thả hai trái bom đúng thời điểm. Hai vào thả và ra cũng được an toàn.

Tôi bắt đầu cho Pass thứ 3 và khám phá ra là chỉ còn một phần tư vòng tròn bên trái bắn lên, tính ra là sáu dây đạn. Như vậy ba phần tư kia đang làm gì? Cường độ cǎng thẳng đã giảm bớt, chúng tôi tiếp tục thả Pass thứ 4 và 5. Pass cuối cùng, thứ 6, vẫn còn phần tư bắn lên. Hy vọng bọn Công sản sẽ toại nguyện với câu “sinh Bắc tử Nam” qua bốn trái cuối cùng!  Những tên nầy đã từng bắn hạ phi cơ khu trục trong nhiều năm qua là nhờ tài ngụy trang của chúng, nhưng hôm nay chúng không dùng chiến thuật đó, cho nên đã đi gặp Lãnh tụ “Cáo già gieo máu lửa” (HCM) ở âm phủ, trước khi nâng ly rượu mừng chiến thắng!

Hai thả xong và vào hợp đoàn, phi tuần lấy hướng về TSN, trong khi TX báo cáo kết quả là toàn diện mục tiêu đã trúng bom.

Lính KQ làm việc ngày đêm, bảo trì và trang bị vũ khí cho phi cơ, để cuối cùng các quả bom rơi chích xác vào mục tiêu qua bàn tay người thả, họ đã thật sự đóng góp vào cuộc chiến và sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc!

Rồi ngày 30 tháng 04 năm 1975 đến, Miền Nam sụp đổ trong sự uất ức, ngỡ ngàng và đau xót của Quân và Dân miền Nam nước Việt. Chính thể Việt Nam Cộng Hòa cáo chung… Tôi không còn có dịp được lái máy bay nữa, hóa ra câu chuyện kể trên chính là phi vụ hành quân cuối cùng về cuộc đời bay bổng của tôi.


(xin điều chỉnh xã Tân Phú trong bản đồ)
Bản Đồ Biên Hoà

Chuyến Bay Định Mệnh (30-04-1975)
(Phi Vụ Di Tản từ Tân Sơn Nhứt - Phú Quốc - Thái Lan)

Những ai đã thoát thân khỏi Việt Nam trong mấy ngày cuối cùng của tháng Tư năm 1975 đều trải qua ít nhiều trong giây phút kinh hoàng. Tôi phải dùng chữ thoát thân vì đối diện với tử thần, với nhiều việc bất bình thường phải đối phó, và cuối cùng vượt qua bao khó khăn trong may mắn mà Thượng đế đã ban cho.

Tôi có cảm tưởng như không có cơ hội hay phương tiện để theo dõi, hoặc bắt kịp những biến chuyển dồn dập xảy ra về tình hình chiến sự trong vài tuần lễ cuối tháng Tư năm 1975. Sau khi thi hành “Phi vụ hành quân cuối cùng” trong ngày 27-04-1975, hôm sau là ngày nghỉ thường lệ sau ba ngày làm việc. Tuy là nghỉ, nhưng tôi bận rộn suốt ngày.

Vợ có thai năm tháng cho cháu thứ hai và đứa con một tuổi phải ở lại VN do sự quyết định của ông cha vợ, thay vì đuợc Mỹ cho đi Guam (phần đất của Mỹ) trước. Sau nầy, tôi sẽ đi hay bay phi cơ ra khỏi Việt Nam sau. Ông lo sợ, vì vợ có thai và thêm đứa con nhỏ một tuổi xa gia đình, và sống ở một nơi vô định. Hơn nữa, Ông còn dùng đến giải pháp Trung lập gồm ba thành phần (VNCH, MTGPMN, Thành Phần Thứ Ba) cho miền Nam VN … để thuyết phục tôi. Đúng là người Nam không biết gì về Cộng sản (!?) Trong khi tôi cho CS là nguy hiểm.  Một gia đình dân s người Bắc, ở cạnh nhà cha vợ tôi, đưa gia đình xuống thương thuyền của ông một tháng trước ngày mất nước. Ông sẵn sàng cho gia đình bên vợ tôi tháp tùng, nhưng cha vợ tôi không đáp ứng. Như vậy, ông nầy sợ Cộng sản hay đã biết rõ ngày tàn của cuộc chiến sắp đến, nhưng cá nhân tôi chỉ hoang mang trước vấn đề, hay đúng hơn là không biết gì. Có lẽ mọi việc dồn dập kéo đến làm tôi không còn giây phút bình tĩnh, tìm hiểu và thảo cho mình một kế hoạch phải làm gì trong những ngày cuối cùng, mà chỉ đối phó với những vấn đề lũ lượt xảy ra trước mắt hay trong trí não.

Ngày bay hành quân, tối trực phi vụ đêm. Phi vụ đánh đêm trên chiếc Skyraider khá nguy hiểm, nếu không có đủ ánh sáng hỏa châu. Tuy vậy, hai anh hùng Th/tá Trương Phùng và Đại úy Trần Văn Phúc thuộc PĐ-518 đã xung phong ra bãi đậu phi cơ, dưới trận pháo kích hoả tiển 122 ly vào phi trường TSN rạng sáng ngày 29-4-75, để di chuyển hai phi cơ A-1 đến đầu phi đạo và cất cánh khẩn cấp. Sau khi dập tắt vị trí pháo cuả địch, không may cho phi cơ Th/tá Phùng và Tinh Long AC-119G bị SA-7. Th/tá Phùng hy sinh cho Tổ quốc. Đ/úy Phúc vđáp an toàn. Tưởng niệm cố Th/tá Phùng và cố Đ/úy Trần sĩ Công (khóa 64D) PĐ-514 đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc trong phi vụ đêm (Đ/ úy Công bay từ Biên Hòa đến yểm trợ Phan Rang trong áp lực mạnh của CS vào giữa tháng Tư 1975).

Tôi ở ngoài Căn cứ Tân Sơn Nhứt trong đêm 28-04-1975 và được đánh thức bởi những tiếng đì đùng vào rạng sáng ngày 29-4-1975. Thỉnh thoảng, tôi nghe vài tràng tiểu liên gần nhà và thiếp đi trong mơ màng sau cơn mệt mõi cho đến sáng.

Tôi đi làm như thường lệ và vào cổng Tân Sơn Nhứt cũng dễ tuy có đông người.  Hình ảnh tàn phá đầu tiên đến với tôi là chung cư hai tầng bị phá vở còn bốc khói vì đạn pháo kích.  Như vậy, những tiếng đì đùng kia là hoả tiển 122 ly của CS rót vào căn cứ TSN rạng ngày 29 tháng Tư. Được biết anh em trong PĐ-518 đang tụ tập ở Bộ Chỉ huy Hành quân Không Quân (BCHHQKQ), tôi liền đến đó và gặp Thiếu tá Lê Văn Sang, Trưởng phòng Hành quân phi đoàn, Ông đang đứng trước cửa BCHHQKQ và cho tôi biết PĐ-518 đi biệt phái Cần Thơ. Tôi trở về nhà vội vã lấy một ít tiền và những gì cần thiết để đi biệt phái. Vợ tôi hôm nay ở nhà, thật may mắn cho chúng tôi có khoảng thời gian ngắn để tạm chia tay. Lần chia tay này không như những lần chia tay trước đây, lòng tôi thấy lo ngại và bất an do những sự kiện dồn dập xảy ra trong những ngày qua. Tôi hôn vội hai mẹ con để từ giã và vội vã trở lại đơn vị. Chúng tôi không bịn rịn nhiều hay hai hàng lệ ngắn dài, nhưng đâu ngờ đây là lần chia tay vĩnh viễn. Chính vì chỗ không biết rõ sự việc vào giờ chót đã giúp chúng tôi chia tay dễ dàng, hơn là ở lại chịu cảnh tù đày, nếu không muốn nói là bị hành huyết mà Cộng sản thường dùng câu “đền nợ máu”.

Vào cổng TSN lần nầy khó khăn hơn vì số người khá đông, thêm vào tiếng súng chỉ thiên để giử trật tự, tôi trở lại BCHHQKQ sau 10 giờ sáng và khám phá ra PĐ-518 đã cất cánh đi Cần Thơ. Tôi gặp Trung tá Nguyễn C. Phước (Ông đã qua đời ở   Orlando, Florida) trong phòng BCHHQKQ khi bước vào và Ông bảo tôi là mình tìm phi cơ để đi. Chúng tôi ra khỏi phòng và gặp ngay vị cứu tinh, Cơ trưởng Lợi. Anh bảo có một chiếc AD-5, skyraider (chiếc nầy có hai chỗ ngồi lái và một phòng trống khoảng 4 ft ngang x 5ft dài x 3 ft cao  ở phía sau ghế phi công) với bình điện hư, nhưng anh có  thể thay bình điện tốt. Cả ba chúng tôi lên xe jeep ra bãi đậu. Tôi còn bình tĩnh, nhưng ông Phước thì không, có lẽ vì tôi không ở trong phi trường đêm hôm qua để ẩn núp những đợt  pháo kích của CS, đã giúp tôi tránh được lỗi lầm cũng như vượt qua vài khó khăn trong thời gian di chuyển và cất cánh.  Người lính kéo vòng kẻm gai cho xe vào bãi đậu phi cơ. Chiếc AD-5 (A-1E) được trang bị đầy bom đạn. Cơ trưởng Lợi đang thay bình điện không đầy mười phút, trong khi Tr/tá Phước dùng Motorola cầm tay gọi những sĩ quan ở BCHHQKQ, nhưng Ông không liên lạc được một ai. Nếu liên lạc được thì những sĩ quan nầy sẽ ra phi cơ và cùng đi. Về sau nầy, Tr/tá Phước cho biết: Tr/úy L, người giữ an ninh cho phần sở là tên nội tuyến, đã bắt giữ hết sĩ quan trong phòng BCHHQKQ.


Phần sau phòng lái A-1E

Phi cơ nổ máy với máy phát điện (APU*). Sau khi nổ máy, những người lính ở gần đó tràn lên phi cơ đầy ấp với tổng số 15 người kể cả tôi. Phi cơ không di chuyển được vì máy APU bị vướng dưới quả bom. Cần một số người xuống kéo APU ra vào lúc nầy không phải dễ. Sau cùng, có bốn người xuống kéo APU ra, nhưng không được, vì sức nặng phi cơ đè lên APU, họ dùng súng bắn xẹp bánh xe APU để kéo ra. Cám ơn nhóm người tự nguyện với sáng kiến và hoàn tất tốt đẹp!

Phi cơ rời ụ và di chuyển chậm do các chướng ngại vật, đa số là xe hai bánh nằm rải rác trên đường di chuyển. Quang cảnh thật tiêu điều buồn bã, không bóng dáng xe cộ hay người lính qua lại giữa ban ngày trong giờ làm việc. Phi trường TSN thoi thóp mà tôi chứng kiến trong giây phút cuối cùng. Cảm giác lo âu rợn người đã thúc dục tôi ra khỏi nơi nầy càng sớm càng tốt. Tôi nhớ là không liên lạc với đài kiểm soát và tự cho là phi trường hoàn toàn đóng cửa.  Phi cơ đến gần khoảng giữa hai đầu phi đạo, sau khi nhìn trái và phải không có gì, tôi cho phi cơ vào phi đạo rồi quẹo phải và di chuyển xuống đầu phi đạo 27 trái. Trong thời gian nầy, tôi có cơ hội kiểm soát được phần phi đạo nầy, đáng lẽ tôi phải kiểm soát nửa phần phi đạo bên kia cho chắc ăn. Nhưng vì quá lo sợ bị pháo kích hay có kẻ bắn vào phi cơ, lại sợ phi cơ khác cất cánh trên cùng phi đạo, cũng may là không có hố hay mảnh vụng của hỏa tiển để lại trên phi đạo. Tiếng pháo kích hay súng nhỏ không xảy ra từ lúc vào phi trường. Tôi không dám di chuyển thêm 1.000 bộ đến đầu phi đạo 27 trái, vì sợ súng nhỏ từ ngoài vòng đai hay ở lâu trên phi đạo. Điều nầy làm tôi hối tiếc khi cất cánh gặp các chướng ngại vật ở trên và cuối phi đạo. Phi cơ trở đầu 180 độ để cất cánh. Mười lăm sinh mạng, mười lăm trái tim trong 30 phút đợi chờ, hồi hộp, hy vọng và nguyện cầu may mắn cho một cất cánh an toàn, đã phó thác cho định mệnh.

Chiếc phi cơ với 24 tuổi già lăn bánh và trọng tải hơn 5.500 cân (lbs) ngoài mức ấn định. Trong khi phi cơ chạy khá nhanh, tôi khám phá ra phía trước là một xe jeep đậu ở một nữa phi đạo bên trái, và liền đưa phi cơ sang nữa phi đạo phải, sau khi qua khỏi xe jeep lại thêm một chướng ngại vật khổng lồ ở cuối phi đạo, đây cũng là lúc phi cơ bắt đầu rời phi đạo. Tôi thấy rõ, đó là xe Cần cẩu với đầu cần cao khoảng 50 ft, tôi quẹo phải và kéo nhẹ phi cơ qua khỏi đầu cần bên cánh trái trong gang tấc. Chúng tôi quá liều lĩnh trong giây phút căng thẳng đã chọn cho mình cái chết, nếu không may, hơn là trói tay nộp mình cho địch quân. Có thể đây là chiếc A-1 cuối cùng cất cánh vào khoảng sau 11 giờ trưa ngày 29-4-1975. Những tên nội tuyến đã hoạt động và cô lập một phần phi đạo. Phi cơ quẹo trái về hướng Đông trên thành phố để tránh phòng không SA-7, rồi lấy cao độ hướng về phi trường Cần Thơ. Vài hơi thở dài đã làm tôi giảm bớt tinh thần căng thẳng.

Tôi liên lạc đài kiểm soát Cần Thơ để xin chỉ thị đáp, nhưng bị từ chối không lý do và bảo tôi tìm phi trường khác để đáp. Bình thường, đài cho biết lý do và khoảng thời gian chờ đợi để có thể đáp trở lại hoặc giúp đỡ pilot tối đa, hơn là đuổi tà. Vậy thì “Một câu nhịn mười lăm câu lành” vào lúc nầy âu cũng là hợp lý (!) Về sau nầy, tôi được biết hai PĐ Khu trục cánh quạt 514 và 518 thuộc vùng III đã di tản về đây hôm qua và sáng sớm nầy, đã bị Phòng thủ Cần Thơ cản trở trong vụ cất cánh đi Thái Lan trước đó không lâu, nhưng rồi cũng được cất cánh sau cuộc tranh cãi giữa kẻ ở người đi qua áp lực mạnh của phi tuần A-1 ở trên không. Tôi thông báo cho anh em trên phi cơ để tìm một phi trường khác đáp, vì tôi không quen với vùng IV. Một vài phi công phía sau phòng lái, có lẽ là phi công vận tải, họ thường bay trong vùng nầy và cho biết C-47, loại phi cơ vận tải nhỏ, đáp được ở phi trường An Thới đảo Phú Quốc. Trong khi đó, tôi nhận miếng giấy nhỏ với câu“Đất nước mình hết rồi, nên đi Thái Lan.” Thoạt nhìn thấy, tôi có cảm nghĩ đây là lời thỉnh nguyện của một không tặc, tim tôi đập mạnh sau sự ngạc nhiên. Một số anh em chạy đến phi cơ với súng ngắn, súng dài lúc còn trong bãi đậu cũng đã làm tôi ớn người. 

Sau bốn mươi phút bay và không có chủ đích đi U-Tapao, Thái Lan ngay lúc đầu, hơn nữa, đồng hồ xăng chỉ hai phần ba bình, tôi lấy hướng Đông ra Phú Quốc và cho mấy trái bom xuống biển an toàn. Lần đầu tôi được biết phi trường An Thới ở đầu đảo từ anh em phía sau phòng lái. Tôi hạ cao độ và bay thấp qua phi trường để kiểm soát phi đạo, rồi vòng lại đáp ngay, nếu không sẽ bị Hải quân bắn.  Đó là lời anh em kể lại sau khi đáp.  Phi trường An Thới làm bằng vỉ sắt, ngắn và hẹp chỉ dùng cho phi cơ nhỏ. Phi cơ vào bãi đậu khoảng quá trưa.  Vài chiếc Cessna (U-17) ra cất cánh lấy hướng đi Thái Lan, thay vì về đất liền, đã gây sự chú ý cho vị Đ/úy đại diện Không quân trên đảo. Phi cơ được châm đầy xăng. Chúng tôi trở lại bãi đậu. Vài anh em đi mua thức ăn và chia nhau ăn dưới cánh phi cơ.  Một giờ sau, có khoảng sáu người lính Hải quân đến canh gác phi cơ, có nghiã là phi cơ không được cất cánh. Phải chăng vị Đ/úy KQ và Đ/tá Đặc khu trưởng Hải quân ở Phú Quốc đã làm việc với nhau trong vụ nầy?  Chúng tôi ở đây cho đến chiều và thả bộ ra phố dùng cơm. Người dân trên đảo PQ vẫn sống bình thản. 

Buổi hoàng hôn trên hòn đảo thơ mộng thật tuyệt vời! Nước trong xanh bao quanh với luồng gió mát rượi. Thành phố hiền hoà không chiến tranh, Phú Quốc là một điạ đàn! Tôi trở về với thực tại và đau buồn cho người vợ trẻ chiều trông, đứa con thơ không cha, bà mẹ già đơn côi… Và tủi hờn cho chiến tranh trên quê hương nhỏ bé do các cường quốc gây ra.

Trước tình trạng phi đạo vỉ sắt ngắn và không đài kiểm soát, tôi lo ngại cho việc cất cánh và đề nghị anh em nào muốn đi Mỹ nên theo đài “Mẹ VN” xuống tàu Hải quân đi ra hạm đội Mỹ tối nay, 29 tháng Tư. Tôi nhờ Cơ trưởng Lợi lấy đạn đại bác ra khỏi phi cơ để phi cơ nhẹ hơn. Rồi màn đêm buông xuống. Chúng tôi nằm trên vỉ sắt dưới cánh phi cơ cho giấc ngủ trong đêm và ngủ sớm sau một ngày dài phong ba bão táp đã trôi qua. Tuy đầu óc nát tan trước sự chia ly với gia đình, đổi thay của vận nước… Nhưng không sao ngăn cản được cơn ngủ, và trước sự rũ rượi của cơ thể đã đưa tôi vào giấc ngủ hôn mê…

Tôi được đánh thức bởi tiếng sóng biển và đón chào ánh hồng từ phương Đông để chuẩn bị cho một ngày tha hương. Mười lăm người vẫn còn lưu luyến với con tàu. Đúng tám giờ ba mươi, tôi làm tiền phi, máy nổ đều đặn, phi kế tốt, rồi tắt máy. Phi cơ trong điều kiện tốt để bay. Mọi người theo dõi tin tức qua chiếc radio của người lính Hải quân. Đến mười giờ mười lăm sáng ngày 30-04-1975, vị Tân Nguyên thủ Quốc gia, Dương Văn Minh đọc diễn văn… và kêu goị các quân nhân trở về trình diện đơn vị. Như tiếng sét đánh vào người! Tôi bàng hoàng trước cuộc đầu hàng không điều kiện và không biết rồi đây số phận của mình sẽ ra sao. Trong giây phút cảm xúc, tôi không còn sự chọn lựa nào khác. Chúng tôi đứng lên, cùng lúc với những người lính Hải quân về trình diện đơn vị. Không một ai trong chúng tôi ở lại đảo để trở về đơn vị, nhưng chấp nhận một cất cánh thật nguy hiểm và phó thác sinh tử cho định mệnh. Như vậy chúng tôi bất tuân lệnh của vị Tân Nguyên thủ Quốc gia. Đó là một trọng tội! Có lẽ mọi người thấy được sự dã man mà Cộng sản áp dụng đối với quân dân trong cuộc chiến vừa qua đã thúc đẩy chúng tôi chọn sự ra đi. Thật vậy, thời gian đã chứng minh chương trình tù cải tạo chỉ là đường lối bịp bợm để che mắt quốc tế trong việc giết tù nhân của Cộng sản, bằng lao động quá sức, thiếu dinh dưỡng và vệ sinh, không thuốc men chữa trị khi lâm bịnh, hay hủy hoại thân xác và tinh thần cho đến khi người tù không còn tự chủ để có hành động liều lĩnh và đón nhận cái chết. Hơn một phần năm hay từ một trăm sáu mươi lăm đến hai trăm năm mươi ngàn người tù đã bỏ mình trong trại tù sát sinh, vì nó không còn ý nghĩa tù cải tạo.

Theo luồng gió, tôi quyết định cất cánh từ đầu phi đạo hướng Bắc và yêu cầu tất cả anh em đi bộ đến đầu phi đạo, vì sợ bánh đuôi không chịu nổi do phi đạo vỉ sắt và trọng lượng số người.  Phi cơ dừng lại trên phi đạo để đàn bò băng qua, cũng là cơ hội kiểm soát phi đạo trong lúc di chuyển. Tôi làm thủ tục cất cánh sân ngắn, trong khi anh em leo lên phi cơ và chưa bao giờ cất cánh trong điều kiện nầy, nhưng tin tưởng vào khả năng. Laị một lần nữa, mười lăm sinh mạng, mười lăm trái tim trong hồi hộp, hy vọng và nguyện cầu cho một cất cánh cuối cùng. Tay ga đẩy lên cao trong tiếng gầm thét của đông cơ, như sự tức giận của nó cũng như chúng tôi đã phải rời quê hương.  Thắng được nhả ra và phi cơ phóng tới. Tôi đã đối phó thật gây go trong lúc cất cánh vì lực phản hồi của động cơ và phải nhấp thắng phải hai lần để giữ hướng. Phi cơ bắt đầu lên ngay cuối đầu phi đạo, như biết mình đã thoát khỏi bàn tay tử thần, một tiếng thở phào làm giảm bớt sự căng thẳng tinh thần. Mặc dù trước tình cảnh hổn loạn và tinh thần căng thẳng, nhưng phi công lúc nào cũng giữ bình tĩnh và sáng suốt trong việc điều khiển phi cơ, để tránh lỗi lầm đưa đến tai nạn rất dễ xảy ra trong lúc nầy. Phi cơ xa dần Phú Quốc và để lại phía sau một quê hương thân yêu trong tay loài “quỉ đỏ.” Phú Quốc sẽ ra sao khi hằng ngàn tù vượt ngục?

Trên cao độ bình phi, tiếng động cơ đều đặn giữa đại dương, xa xa đường chân trời u xám bao quanh phi cơ. Tôi chú tâm làm việc trong hy vọng cho chuyến bay đặc biệt với mười lăm sinh mạng trên con tàu chỉ một động cơ. Trong suốt lộ trình dài ba tiếng mười lăm phút bay, chúng tôi khóc thật nhiều như đứa trẻ thơ cho sự xa lìa quê hương trong khói lửa điêu tàn, cho cuộc chiến Ý thức hệ... Tiếng nấc tự đáy lòng của những đứa con thân yêu đã không làm tròn bổn phận như những mong ước cuả Mẹ Việt Nam. Phi cơ đáp an toàn với bánh đuôi đã bể trong lúc cất cánh.

Họa sĩ CoHuong


Lời Kết

Nỗi buồn nhứt của tôi là ngày mất nước 30-4-1975, khi Cộng sản chiếm trọn miền Nam. Thêm vào đó, người dân miền Nam phải lâm vào cảnh địa ngục trần gian, như tù đầy, đi vùng kinh tế mới, gia đình ly tán... Đúng là cuộc Đổi Đời (!). Trong khi Cộng sản gọi là giải phóng.

Chiến tranh ác liệt và chết chốc đã mang đến nỗi kinh hoàng và lo âu cho những gia đình có chồng, con… tòng quân, trong khi người lính thiếu thốn phép về thăm gia đình, khi phục vụ nơi xa nhà. Nhiều lúc phải trực hoặc hành quân trong ngày Tết.

Hơn mười năm quân ngũ, hai năm huấn luyện ở Mỹ và hơn bảy năm rưỡi chiến đấu liên tục qua hai loại phi cơ L-19 và A-1, trên khắp chiến trường Vùng II và III, đôi khi biệt phái cho vùng lân cận. Sau cùng, tôi đã may mắn thoát khỏi nanh vuốt loài quỉ đỏ và trở lại cuộc sống đoàn tụ với gia đình (vợ và hai con nhỏ vượt biên) trên đất khách quê người.

Là quân nhân ngày đêm trực diện địch thù và ít khi nghĩ đến chính trị.  Tuy nhiên, tôi cũng có ít nhiều suy tư. Lần nầy người Mỹ trở lại Đông Nam Á (ĐNÁ) vào thập niên 60, sau cuộc chiến Triều Tiên, và khoác áo Đồng minh với VNCH, để thực hiện điều mà họ cho là “cộng sản muốn thống trị châu Á dưới chiêu bài dân tộc”. Nhưng, thực chất đó là “quyền lợi cốt lõi” của Mỹ ở ĐNÁ. Hãy nghe tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nhận định “Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ"  Theo ông nguyên nhân sâu xa của việc Mỹ áp đặt sự chiếm đóng lên miền Nam Việt Nam là để điều khiển và kiểm soát thị trường kinh tế, nhân lực, sức lao động và tài nguyên ở vùng Đông Nam Á. Và riêng tôi với cương vị và nhận thức của một quân nhân, tôi còn nhận thấy rằng trong chiến lược bành trướng sức mạnh cho Thế Giới Tự Do do Mỹ lãnh đạo,  Mỹ không bỏ cơ hội nào để nổ lực tìm kiếm những đồng minh Quân Sự và Chinh Tri cho Khối của mình.

Một sử gia Mỹ, Jonathan Neale cũng đồng ý lập luận của tiến sĩ Daniel Ellsberg và cho rằng “chính sách chống cộng của Mỹ chỉ là để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ”.

Thêm vào đó, và cụ thể hơn, chiến trường Việt, Miên, Lào có thể là nơi để tiêu thụ những chiến cụ, bom đạn… còn lại không hợp thời sau Thế chiến II.

Đến năm 1969, người Mỹ đã hy sinh vĩ đại cả người lẫn của cho chìến tranh Việt Nam để chận đứng làn sóng CS tràn xuống vùng ĐNÁ. Người Mỹ công bố “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” ngày 25-7-1969 (nhằm từng bước chuyển trách nhiệm tiến hành chiến tranh cho chính quyền và quân đội Sài Gòn để Mỹ có thể rút dần quân về nước), mà trước đây không lâu, Tướng Westmoreland, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ ở miền Nam VN khẳng định là muốn giữ miền Nam phải có nửa triêu quân Mỹ. Thật mâu thuẫn!  Đó chỉ là kế hoạch rút quân Mỹ khỏi Việt Nam trong danh dự (!?).  Cũng trong năm 1969, Cố vấn An ninh Henry Kissinger đã mật đàm với Trung Cộng qua trung gian Tổng thống Pakistan.

Đến năm 1972, Tổng thống Mỹ, Nixon công du Trung Cộng để bắt đầu ban giao mậu dịch giữa hai nước Mỹ-TC. Điều nầy chứng tỏ, người bạn Đồng minh đã tìm đường tháo chạy khỏi cuộc chiến chống CS ở ĐNÁ. Tiếp theo là Hiệp Định Hòa Bình Paris cho Việt Nam, ra đời ngày 27-01-1973. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị ép buộc từ phía Mỹ để phải ký vào hiệp định nầy một cách vô điều kiện. (Đại tướng Haig trao cho TT Nguyễn Văn Thiệu bức thư của Nixon, mà Kissinger gọi là "bốc lửa". Trong thư này đoạn quan trọng nhất là: "Vì vậy chúng tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt Hiệp định ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần thiết, chúng tôi sẽ làm như thế một mình. Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng Chính phủ của ông cản trở hoà bình. Kết quả là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự sắp xếp lại Chính quyền của ông cũng chẳng thay đổi được tình hình").  Người Mỹ chấp nhận tất cả điều khoản đòi hỏi từ phía Bắc Việt. Có thể nói, người bạn Đồng minh chịu thua trong danh dự để đổi lấy tù binh, người Mỹ mất tích trong chiến tranh VN và hứa bồi thường VN 3.25 tỷ đô-la để tái thiết do chiến tranh gây ra.

Nguyên nhân đưa đến quyết định trên, một phần là do “biểu tình phản chiến ngày càng mạnh ở Mỹ, dân chúng Mỹ chán ghét chiến tranh VN, dân biểu và nghị sĩ  xoá tên VNCH,  viện trợ cho VNCH giảm từ 2.2 tỷ cho năm 1973, 1.1 tỷ cho năm 1974,  chỉ còn 500 triệu cho năm 1975”. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là “quyền lợi cốt lõi” của người bạn Đồng minh trong việc thành công bang giao mậu dịch với Trung Cộng, và đồng thời gây chia rẽ giữa Nga và Trung Cộng.

Sự bội ước của người bạn Đồng minh qua viện trợ về kinh tế, quân sự và chính trị, như tái oanh tạc khi cộng sản tấn công miền Nam, đã trói tay quân đội VNCH. Nhưng, họ đã anh dũng chiến đấu cho đến cùng. Mọi ngưòi đều biết “chính người Mỹ bỏ VNCH nên VNCH mới thua”.

Nếu chúng ta có vài chục quả bom Daisy Cutter (BLU-82, nặng 15.000 cân) theo tôi nghĩ, tỉnh Ban Mê Thuột có thể tái chiếm sau ngày 11-3-1975 (Ngày BMT thất thủ). Tại sao chúng ta không có những trái bom nầy, cho mãi đến giữa tháng 4-1975 mới có được 2 trái cho trận Xuân Lộc để chận bước tiến địch?  Chỉ hai trái cũng đã loại khỏi vòng chiến hai Sư đoàn CS (tài liệu từ Tướng Lê Minh Đảo). Phải chăng, người Mỹ chỉ cần làm chậm bước tiến địch để có nhiều thời gian cho kế hoạch di tản của Mỹ?

Sau khi CS xé bỏ Hiệp Định Hòa Bình và đưa quân tiến chiếm miền Nam tự do, họ đã và đang áp đặt chế độ CS lên miền Nam. Thêm vào việc đổi tiền, trưng dụng tất cả xí nghiệp, đưa hàng trăm ngàn người đi hoc tập cải tạo và đi vùng kinh tế mới…. Trong khi Trung Cộng xích hóa người Việt gốc Hoa bỏ nước, và thực hiện cuộc chiến biên giới Việt-Hoa 1979.  Có gần một triệu người Việt đã bỏ nước ra đi sau chiến tranh cho đến thập niên 80. 

Một lần nữa, Cộng sản chứng minh sự man rợ và tội ác diệt chủng khi trả thù Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam qua chương trình “học tập cải tạo”. Thay vì đoàn kết để cùng xây dựng đất nước sau chiến tranh, Cộng sản vẫn đeo đuổi chủ thuyết Mác-Lê và ôm chân quan thầy Trung Cộng đầy tham vọng.

Việt Nam Cộng sản thực sự gầy dựng đất nước như thế nào sau 42 năm cầm quyền? Sự thật không thể che dấu, đó là tham nhũng tràn lan mọi ngành từ cấp cao cho đến thấp, bất công xã hội khắp nơi, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, gia tăng bắt bớ các nhà hoạt động trong nước, tệ trạng xã hội lan tràn, thiếu vấn đề an sinh xã hội cho người nghèo…

Tổ chức Phóng viên không biên giới xếp hạng Việt Nam đứng thứ 175/180 quốc gia có tự do truyền thông trong báo cáo. Việt Nam là quốc gia tụt hậu vài chục năm so với các nước láng giềng trong vùng.

Viêt Nam Cộng sản khó tránh khỏi một lần nữa Bắc thuộc, nếu cấp lãnh đạo không thức tỉnh và thay đổi đường lối lãnh đạo. 




Phần III
Anh Ngữ

Tác giả nhận giải thưởng thả bom của khóa học từ Đại Tá Betha ngày 15-10-1967
(The author received the bombing award of the class from Col. Betha on 10.15.1967)

The 518th Fighter Squadron in
The Easter Offensive of 1972 in Quang Tri

The 518 FS (Fighter Squadron), known as “Phi Long” (Flying Dragon) belonged to 23rd Tactical Fighter Wing based at Bien Hoa AB and was equipped with A-1 Skyraiders. Each had the capability of carrying up to 4,000 lbs. of ordnance such as general-purpose bombs, cluster bomb units (CBU), rocket pods and 800 rounds of ammunition for its four 20mm cannons. Their primary mission was to provide close air support (CAS) to friendly forces. The Skyraider’s bombing accuracy, target loitering time and ability to work under low ceilings was very useful in marginal weather conditions.

On April 4th of 1972, the activity level in the squadron was normal until about 9:30 in the morning when the squadron commander, Maj Hung, known as “Hung rau” (bearded Hung), called for an urgent meeting in the ops room. Immediate attempts were made to contact other pilots in the squadron who were in the area but not on duty. The atmosphere in the ops room was mixed with anxiety and uncertainty but was very focused. The meeting lasted only 5 minutes with the announcement that 518 FS would be dispatched to Da Nang AB (1st Air Division) for one week of CAS and everyone had 2 hours for departure preparation.

The squadron vice commander, Maj Trat. was given the task for flight departure preparation. We would have of five flights of four Skyraiders each. After the short meeting, I rushed to my wife’s brother’s home on base to ask him to let my wife know that I would be deployed. Upon returning to my room, I quickly gathered things that I would need for the next seven days and headed to the officer’s club for a quick lunch before returning to the squadron. As had been directed, all available pilots went out to their planes and took off bound for Da Nang. This was the first time the entire squadron had been deployed away from home. Nobody knew what the target was going to be, but everyone realized that there must be an urgent need for this kind of arsenal and the men who could deliver it. Thought came to my mind that innocent people would be involved and sacrificed for the war called “The Liberation of the South” by the communists of North. Communist tactics include using innocent civilians as human shield and propaganda against the South Vietnamese Government. 

The cool air at high altitude relieved the extreme heat from the tarmac and dried my back that was soaking wet with sweat. The sky along the coast to Da Nang was beautiful with the ocean to the east and mountains to the west. Small clouds moving beneath the wings with blue ocean below depicted the vibrant beauty of South Vietnam.

After three and a half hours of flight time, the flights started descending, the 4-ship formations looked magnificent up close. We landed at 4pm and were placed into two trailers near the parking ramp as our temporary shelter for the next seven days. At 6pm two pick-up trucks took us to a dining hall on base for dinner.  It was the most interesting dinner since all the members of Phi Long were there. None of us worried about what was going to happen next, but in the next few days, some of us would be gone forever. While waiting for our meals to be served, we enjoyed glasses of iced tea to rehydrate ourselves after the long flight without water.  In the atmosphere filled with laughs and noise of dining hall, Capt. Vinh threw in a few jokes to loosen up the worries of the upcoming risky missions with phrases like, “Do not think about the bullets coming at us. If we’re scared before we even get there then how the hell are we going to fight?”

After dinner we gathered in the ops room at 8pm to hear the briefing about the target, weather and the surrounding area. The weather at this time of the year is the worst and the North Vietnamese Army (NVA) took advantage of it to launch an all out assault on the 1st Corp in an attempt to take over control of the northern part of South Vietnam. In the past few days, intelligence reported the NVA had mobilized armored vehicles such as T-54 and PT-76 tanks plus army trucks with infantry divisions to cross the demilitarized zone (DMZ) and attacked bases located north and northwest of Dong Ha about 200 kilometers from Da Nang. The advancing column led by armor vehicles was moving toward Dong Ha on HWY 1 without resistance. The 1st Air Division couldn’t send its A‑37Bs into the fight due to bad weather. 

The weather on the 5th of April did not improve until around 3 pm when the skies cleared from Da Nang to Dong Ha with scattered clouds at 5,000 feet. All our A-1s were prepared for a strike with me being the lead of the first flight into the target area. My flight was a two ship of A-1s loaded with six Mk-82 500-lbs bombs each.  We made contact with our FAC flying an L-19 in the target area to get our target briefing, when we were about 5 miles south of Dong Ha which was located just north of the Mieu Giang River.  A vital bridge across this river connected Dong Ha with Quang Tri via Hwy 1. I spotted a column of about  over 100 vehicles north of the bridge about 1½ miles NW of Dong Ha with the lead tank about 1000’ from the bridge. I made a left turn initiating a strike pattern from NW to SE along Hwy 1 with a pull up to the left after releasing. I began attacking the first 10 tanks while my wingman attacked the following ones. On the second pass, while pulling up, I heard a loud explosion that rocked my plane.  This explosion was caused by the bridge being blown up by friendly troops. I saw the black puffs of smoke in the sky from the AAA on the ground.  After releasing all of our ordnance, we left the area for the next seven flights to come in to continue the attack. This lasted until late afternoon. The enemy tanks were having tough time getting off the main road due to muddy rice fields on both sides of the road except those in the leading column.  All pilots returned to base safely in high spirit and a sense of accomplishment despite the surprising encounter with the AAA defense.

The weather continued to be good on the 6th of April.  Overnight, the VNA had frantically moved their tanks underneath the trees in hopes they wouldn’t be detected by the FAC.  My flight was over the target at 8:30 am and was given the order to destroy more tanks. There were four hidden under a tree near the riverbank east of Hwy 1 and one more to the west. We were able to destroy these tanks without much difficulty. After landing I discovered my plane had been hit with one round of 12.7mm on the right wheel well cover. Other planes continued to destroy tanks on the west and northwest of Dong Ha. Maj. Hung’s plane was shot at after he had destroyed several tanks NW of Dong Ha. Hung maneuvered his plane out of the danger zone, but his Skyraider started losing altitude and burning. Hung bailed out and steered his chute toward SE Dong Ha. The NVA took several shots at him but eventually he was picked up by friendly troops.

On the 7th of April, the NVA continued to move from Dong Ha to the west through the jungle in an attempt to cross the Mieu Giang River in order to move to the south. Our planes continued to hunt and attack the enemy west of Dong Ha. After destroying several tanks, Capt. Phan Quang Tuan’s Skyraider was shot down and no parachute was seen. He was gone and left behind many with heavy hearts. I missed combat on this day because I recovered one of our A-1s that had made an emergency landing at Quang Ngai.

No missions were flown on the 8th of April, but on the 9th we discovered that NVA tanks had crossed the Mieu Giang River and were moving east which put an ARVN base, 4.5 miles SW of Dong Ha, in danger. My flight of two A-1s armed with 6 Mk 82s each, was the first to be assigned for air support at 9am. The weather was very bad beginning at Hue where we had to drop down below a low ceiling, through the rain, in order to navigate using the coast line as ground reference. Under normal circumstances, we would not risk loss of our A-1s in this type of weather, but these were not normal circumstances. The urgent need for air support and our desire to help our ground forces overweighed any safety considerations; so we pushed on.  After a few minutes we got out of the rain and started climbing on the way to Dong Ha. Once we arrived I made contact with the FAC and saw 20 tanks spreading out from the west about 300 meters from the remote ARVN base. The low ceiling made the bomb run somewhat difficult and it would have been better if we would have been armed with anti-tank rockets. As soon as we our planes approached, the NVA tanks made a run to the west. We released all the ordnance at once with the hope of destroying all the tanks before they could escape. As we pulled up, we flew through a barrage of AAA and into the clouds, but were able to recover and make our way home. The second flight, which was led by Capt. Chin, encountered heavy anti-aircraft fire. He later claimed he had never seen such heavy anti-aircraft fire in his life and thought he would be shot down during the mission. Capt Tran The Vinh led the third flight of A-1s. He continued to press the attack. After releasing all their bombs, Vinh’s flight strafed the tanks with their 20mm cannons. Tragically, Capt. Vinh was shot down and killed at this time. The Flying Dragon had just lost another experienced pilot in this fight.

Phi Long would be replaced by the 514th out of Bien Hoa the following day. I’ve since learned from members of the 514th that the NVA was really concerned when they saw Skyraiders approaching. A delegate from the 7th Fleet paid a visit to us and praised our courage for carrying out strikes under such adverse weather. They called us “circus of the air.” The NVA’s offensive in the north with their attempt to occupy the 1st Corp was crushed by the ARVN and the VNAF. Our intelligence reports confirmed that Capt. Vinh was credited for 21 tank kills, I got 17 and Capt. Truong Phung got 16. I was elected as one of the officers representing the Air Force at a military celebration that was held in Saigon later in 1972.

The VNAF headquarters had made the right choice at the right time by sending the A-1 for CAS in the DMZ while the A-37 based at Da Nang was inoperable due to bad weather. The combination of experienced pilots and the bombing accuracy of the A-1s have devastated the NVA. A minor drawback during this air support was the choice of ordnance under certain type of weather. The 518th had logged a total of 52 missions and released 78 tons of bombs during the support. Two pilots were killed and 3 planes were shot down.

In total, over sixty NVA armor vehicles were destroyed and damaged in addition to the casualties.  The NVA ran away when Skyraiders were above them, indicating that the morale among the troops had declined. The NVA commanders did not have any backup plans for the safety of their military convoy when the weather changed from bad to good.  They received heavy air strikes on the first day at Dong Ha village. This air strike is comparable to the one when Japanese military planes attacked the American warships at Pearl Harbor in Hawaii. The NVA failed to disarm the mines under the Dong Ha bridge which they needed in order to move their convoy to the South. The wild strategy of the NVA commanders was harmful to their troops and ultimately resulted in a big loss for them. 

Even though a long time has passed, I will never forget the bravery and sacrifice of the ARVN troops in order to provide safety and freedom to the South Vietnamese people. We prayed that their souls would be in heaven.  We will always remember our comrades.

Editor: Trần Phiếm


Map of Dong Ha


Phạm Quang Khiêm


The Last Operation Flight

The author's note: To record the fight between the NVA (North Vietnam Army) anti - aircraft artillery (AAA) and Skyraiders on 27 April 1975. To share the sacrifices made by the troops of the ARVN (The Army of the Republic of Viet Nam) with their relatives; the ARVN troops were killed by the NVA troops after 30 April 1975 because the NVA troops considered them as the people that owed blood and therefore must pay with blood.

Each pilot's last flight may be a normal flight, an unforgettable flight, or a sacrifice flight without return. South VN had a strong economy and full freedom.  Many young men in the South loved their freedom and country and finally joined the ARVN and the government to protect their country against the NVA invaders.  I chose the Air Force over the other branches.  High school was my highest level of education. I joined the Air Force on 15 Oct. 1964 and was accepted after a thorough health screening for an aviator.  Only about 12 percent passed the health screening. This was the first challenge to becoming an aviator. Nha Trang was my first militay base for training and learning English. After completing the basic training, I learned more English in the United States before attending the flying school. As an aviator, I must achieve my goals on the flight training and good health.  Finally, I graduated the basic training and the advanced training for Skyraider in the US.  I was deployed to 524th FS (Fighter Squadron) for two months while this squadron waited for the A37 training in the US.  I was finally deployed to the 114th Observation Squadron to fly the L-19. I was disappointed to fly the L-19 while the L-19 pilots got a transition to A-1 in US.  I planned to request the Air Command to return to FS, but I did not.  Finally, I was evaluated on the Birddog  for the opt (operation) flight. The Birddog was the small plane and flew slowly compared to the hawk. The hawk hunted rats, the Birddog hunted VC.  After six months of the  opt flight, I was evaluated by the pilot of the American Observation Squadron to be the Forward Air Controller (FAC) of US fighter planes. The Birddogs pilot coordinated with the ground troops on the battlefield and directed the fighter planes to deliver bombs precisely on the target while keeping friend troops safe and achieving maximum results. The Birddog seemed to be rarely hit by the AAA, but it sometimes lost due to the bad weather. For example, after a long flight, the weather at the destination was not good for landing and the pilot failed to choose an alternate destination for a safe landing. After two and a half years with L-19, I was deployed to the 518th FS, also known as Flying Dragon in the 3rd Division at Bien Hoa (BH) AB on 16 June 1970.  It felt good living close to my parents. I was a little worried about flying the huge Skyraider, known as Crazy Buffalo meaning "hard to fly."

The Skyraider with the full load weighs 25,000lbs, Including 8x500lbs (Mk82) or 12x250lbs (Mk81), 2 rockets posts, and 800 rounds of 20mm cannon. I met my old friends who had the same training in the US before.  I loved the 518th FS logo.  It symbolized that the flying dragons tail held the North VN while the head delivered the firing arrow to the North.  After four refreshing flights and one flight of bombing with the four dummy bombs, I was ready for the opt flight. The squadron had a lot of success over battlefields in Cambodia, An Loc and Quang Tri in the Spring Offensive in April 1972. The following heroes who had sacrificed for the war from the day I came to 518th FS were:

-Maj. Nguyen Van Ninh known as Ninh de Gaulle, over Cai Lay in April 1973.
-Maj. Nguyen Gia Tap and Maj. Truong Phung over Tan Son Nhat in April 1975.
-Capt. Nguyen Duy Vinh in Cambodia in 1971.
-Capt. Tran The Vinh and Capt. Phan Quang Tuan over Dong Ha in April 1972.
-Lt. Truong Hoa Thanh in Go Dau Ha in March 1973.

A group of the six pilots with the airplanes were deployed to Tan Son Nhut (TSN) AB year round to support BH AB when needed. We noticed that the NVA AAA had significantly increased on the battlefields, including SA-7. The opt flights decreased beginning in Jan. 1975 due to the lack of supplies from the US in the previous year.  The planes carried one half of the load. I was deployed to Tan Son Nhut AB in April 1975.  The 514th FS and 518th FS retreated to TSN AB on   22 April 1975  since the NVA were close to the base.  Everyone had to take care of their family at this new place.  I came in each morning for the schedule of flights for the day.  My mission was on 27 April 1975 in the morning. I led the flight of two Skyraiders. Lt. Nguyen T. Ba was my wingman. We always flew together because we were in the same group.  On the way to the planes parking lot, Ba recorded the frequency, the rendezvous, and the FAC call sign on the target. Ba always was a happy man and was respected by our comrades. He flew safely and was the flight lead.

I did not know the nature of the target ahead.  This was typical, but the rendezvous point was  at Bien Hoa. The weather was very clear over the target in the morning. The flight of two Skyraiders carried 24 bombs of Mk 81 (250 lbs). After taking off, the flight headed to Bien Hoa at 5,000 on our own frequency. I called my wingman.

-Two, check and report condition of your plane.
-One, it’s good.
-Bien Hoa was at twelve o’clock.
-Two saw it

Why were there so many vehicles on the highway between Saigon and Bien Hoa?

-Maybe people were evacuated from Bien Hoa to Saigon.

Suddenly, Bien Hoa AB came to my mind. It was the place of our daily activities, the huge military air base to support the III Corps and has now been captured.

-Two, switch to the opt frequency… and check in.
-OK, One.

I began to contact FAC.

-Thanh Xa (TX, FAC), Phi Long (PL, Skyraider) called.
-TX heard you 5/5. Please report your location and ordnances.
-PL was over South Bien Hoa 5 miles at 5,000’, two Skyraiders, 24 Mk81 (250lbs)
-OK!  Your target was an AAA position and about 4 miles to the North of the Bien Hoa AB, no friend troops. Report above the target.
-OK! TX.
-Two, did you hear FAC?
-Two heard FAC 5/5.
-TX recognized PL on the Bien Hoa’s air space. When ready to strike, TX will mark the target and keep south of the target at 2,000’.
-OK! TX.

My plane was over the target.  I chose to attack from the East to the West, making  it difficult for the enemy to aim in the morning sun light

-Two, move to combat position, set 26, 46 (2,600 RPMs, 46/56 or 82% of the engine power). The direction of the attack was from E to W, turn left, drop two bombs for each pass and make the final check.
-OK! One.

The engine was loud and the plane was shaking lightly. The plane acted like a tiger attacking a prey.  I was careful as usual.

-TX, mark the target.
-TX rolled in to mark the target.

The white smoke came up near the river and on the green field.  I made a sharp turn to adjust my bomb pattern.

-PL, hit my smoke.
-One rolled in.

I turned my planes wings and just dived in to the target at the same time.  I discovered a ring on the ground firing, estimated to be 300 in diameter. There were many strings of tracers (every 5th round) coming within 20' of my airplane.  I continued until my gun sign was on the target.  I released two bombs two seconds too early due to the heavy NVA AAA.  I pulled up my airplane in 5 g (gravity-force).  I got blacked out even using the anti-gravity method.

-Two rolled in and pulled up safely.

The Lead was always responsible for a safe flight under any circumstances.   I decided to climb up to 8,000 to make it more difficult for AAA gunmen. Bombing accuracy will decrease.  The flight couldnt be an easy target for over 20 AAA because the airplane may be hit by AAA all before releasing bombs.

-Two, follow me and climb up to 8,000 (8,000’).
-OK! One

My Wingman fought calmly and trusted my decision of life and death. The NVA troops brought all AAA to one place from the areas nearby. They chose one technique that I never saw before. Was this technique copied from the North? After two minutes at high altitude, I adjusted the combat pattern, and rolled into the target. Similar to the first pass, the AAA troops shot up with tracers which were slow and far away from my airplane. Therefore, I had enough time to aim at the target via gun sign and dropped two bombs. My wingman also completed his pass safely. I began the 3rd pass and found only one quarter of the firing circle shooting up, it was around six AAA. What happened to other three quarters (18 AAA) of the target? My tension decreased a bit.  We continued to deliver the 4th and 5th bomb passes.  The last pass of two Skyaiders might take care of the last quarter.  Hopefully, the AAA troops were satisfied according to their saying: born in North, die in South." The troops would meet vulgar Dictator (HCM) in hell. My wingman finished his last pass and joined in the flight heading to TSN. The FAC reported that the overall target was hit by the bombs.  The Air Force worked day and night to maintain the aircraft and to load ordinance.  Then, the bombs were accurately delivered to the target by the hands of the pilots. Everyone contribute to defending the South and sacrificed for the fatherland.  The 30 April 1975 came with anger, surprise, and sadness to the people of the South. The Republic of Viet Nam finally ended. The above story was my last operations flight.

Editor: Nguyn Tường


Map of Bien Hoa


BOBS Mission

Beginning 1972, the A-1 Skyraider began to use the BOBS (Beacon Only Bombing System) for bombing missions. Captains and higher ranks who were four-ship flight leads were selected for BOBS training for use in combat. These systems were located at Bien Hoa AB and other Corps. This system was also used for B-52 bombing targets. We flew at high altitude or nighttime to avoid anti-aircraft fire. The BOBS operator directed the pilots to turn their planes to the course for the target that was selected by the system. To keep on course, the pilots used the signal “dit-da” or “da-dit” to make corrects to the left or right respectively. The signals repetition (fast or slow) told you if you were far off course or close off course. The flight had to be on course to enable bomb dropping. The pilots must receive a steady signal “da” for 10 seconds followed by 3 clicks (last 3 seconds), the third click was the time to release the bombers.

The 23rd Tactical Wing Command Post scheduled my mission to take off at 3 in the morning. My wingman and I woke up after the long phone ring, and I got all the necessary information for this mission. We quickly gathered our helmets, survival vests, and chute harnesses and walked to our A-1s parking nearby. By now, our dizeness was gone and we were ready for this mission. At night, everything became limited for work. I walked around and checked the plane quickly. I used all my power to jump on the wing by using my right foot on the step attached under fuselage, while my right hand grabbed the handle on the fuselage. Once in the cockpit, the crew chief helped me hook up the chute harness then got down to the ground to wait for my engine start signal. The propeller turned slowly for the first several turns then quickly producing thick clouds of oily smelling gray exhaust. I checked in my wingman and changed to ground control frequency for taxi instructions. My plane eased out of parking area after the crew chief removed the chocks and I added power. Each plane carried six Mk-82. We took off and joined up over the base, climbing to 7,000 ft. After checking that all instruments were normal, we went to the combat frequency and checked in. Only now, I did discover that this mission was BOBS. My wingman, Lt. Quan C. Dao had never flown BOBS before, so he stayed in close formation during this mission. I was instructed by the system to make a right turn to the course of 272 degrees. At this time I told my wingman to set up his switches for release and told him I would tell him when to turn on his Master Arm switch and when to release his bombs. We began to leave the bright city behind and headed to the dark zone.

Our flight of two AD-6s flew in the beautiful night flight as if we were two stars. I sat in the small cockpit surrounded by the dim light of instrument panel and listening to the signals of “dit-da” or “da-dit” as we approached the target. I told my wingman to turn on the Master Arm switch when we intercepted the proper course. I looked to the side to check my wingman and told him to move out just a bit for this part of our flight. After 15 minutes on course, I heard the long signal “da” for ten seconds. After hearing the third click, I released my bombs and told my wingman to release his. We completed the night BOBS mission and returned to the base. We went back to sleep for the rest of the night.

Editor: Byron Hukee


The Fate of My Flight
(Leaving South Vietnam)

The true story of my final days in Vietnam in April 1975.

Near the end of April 1975, the country of South Vietnam was in complete turmoil. Forces of the communist government of North Vietnam were closing in on Saigon.  Those of us who escaped from Vietnam during the last few days of April experienced many moments of terror. But with the blessing of God, we escaped the advancing communist army of North Vietnam and overcame many challenging incidents and enduring many hardships. This is my story of what went on in during my final days in Vietnam.

Chaos and Confusion

The last few weeks of April were very chaotic and I had no chance to keep abreast of the constantly changing war and political situation. Following the completion of what became my final A-1 Skyraider combat mission on 27 April 1975, I had my normal day off the flying schedule having flown the previous three days. This gave me the opportunity to be with my family. My wife was five months pregnant with our second child so she and our one-year-old son were forbidden to leave Viet Nam by her father. As did many of the South Vietnamese people, he wrongly believed that the ‘Neutral Solution’ would result in the new unified country of Vietnam free from outside interference as a neutral country and peace would finally come to Vietnam. My father-in-law and many other people in South Viet Nam knew little about the dangerous communist government of North Vietnam.

One of my father-in-law’s neighbors brought his family to his boat early that month so they could escape Vietnam. He and my wife and family were offered a chance to join them but he stubbornly refused the chance. This neighbor correctly interpreted the situation that was rapidly approaching and he and his family successfully left Vietnam. I on the other hand, being an A-1 Skyraider pilot in the Vietnamese Air Force, knew that my duty was to my country and therefore I remained with my unit.

During this last week, my squadron, the 518th FS, flew daily combat missions in addition to some night ground alert. Due to lack of night flare support, these night missions were very dangerous. Two 518th pilots, Major Truong Phung and Captain Tran Van Phuc volunteered for one such mission and Phung failed to return. They attacked communist 122mm rocket positions that were used to attacked Tan Son Nhut Air Base. Phung died a hero’s death after they silenced the 122mm rocket fire, but was then shot down and lost by SA-7 missiles.

I returned to duty on 29 April following my day off and found it very difficult to get into the air base because of increased security. My operations officer, Maj Le Van Sang, told me that I should return home to get the things that I would need to deploy later to Binh Thuy. When I arrived home, I was able to say my tearful good-byes to my wife and young son, not knowing whether I would ever see them again. This deployment I was about to undertake was totally different than any I had been on before and the feeling that I may never see my family again made it all the more difficult. [Five years later in the United States, I was reunited with my family including my second son whom I had never met.] I knew that for me, the choice was easy… to remain in South Vietnam and risk capture and probable torture by the communists, or escape this madness that was all around me.

Finding an A-1E to Fly

My wife’s brother gave me a ride back to the base and it was even more difficult to get on the base because of the large groups of people around the base entrance. Base security guards were firing their weapons into the air in an attempt to keep order. When I finally gained entry just after 10 o’clock, I discovered that the rest of the squadron had already deployed south to Can Tho and Binh Thuy Air Base. I met with Lieutenant Colonel Phuc who was chief of the Air Operations Center (AOC). He told me we must look for a flyable A-1E that we could take to Binh Thuy AB. The A-1E was a two-seat model of the Skyraider with side-by-side seating up front for the pilot and a second person. It had a compartment behind the crewmember’s seats that could be used to haul spare parts or people. This compartment was known as the “Blue Room” since it was covered with blue Plexiglas.




We left the AOC and met with Sergeant Loi, one of the 518th FS aircraft mechanics. The three of us rode in Lt Col Phuc’s jeep to the squadron aircraft parking area. I felt calm, but not Lt Col Phuc who was driving the jeep. He had been in the airbase during the shelling the past night, and I could see he was anxious and apprehensive. I knew I had to remain calm to ensure our safety during the upcoming ordeal. The security guard removed the barbed wire from the entrance to the aircraft parking area and we moved inside and parked near an A-1E that was loaded with bombs, but had a dead aircraft battery, but was otherwise ready to go. Sgt Loi quickly replaced the battery in around ten minutes. Meanwhile, Lt Col Phuc used his portable radio to call to his people inside the AOC to tell them to come out to the parking area to get in the A-1E Blue Room, but there was no answer. [While in the US many years later, Lt Col Phuc told me that his guard in the AOC, Lieutenant L. was a traitor and had arrested under gunpoint all the rest of his officers in the AOC.]

I started the Skyraider using the auxiliary power unit (APU) and the airmen standing nearby quickly scrambled up the right wing and climbed into the Blue Room – all told, a total of 15 people were now on board the A-1E Skyraider. There were 10 additional people who were not able to board the aircraft. The chocks were removed, but the aircraft could not move because the APU was jammed under the bombs on the right wing. Four of the passengers from the Blue Room got out in an attempt to free the aircraft. In a moment of inspiration, someone flatted the tires of the APU with a gun and they were able to pull the APU out of the way. The four re-boarded the Skyraider and we were ready to go.

My Flight from Tan Son Nhut AB

It felt strange to begin moving the plane without contacting Tan Son Nhut ground control, but I could not risk the possibility that they might block the taxiway or runway to prevent my departure. I taxied the Skyraider out of the U-shaped revetment and carefully avoided the many obstacles that littered the airfield. There were two-wheelers and other discarded pieces of equipment on and along-side the taxiway I was on. The scene I saw was very sad. There were no soldiers or vehicles moving about, but just the evacuees milling about aimlessly. The usual sights and sounds that were associated with Tan Son Nhut Airbase, the busiest airport in all of South Vietnam, were absent. I was witness to the end of an era, the final moments of this important airbase. I was anxious and frightened, but this helped me to be very cautious and aware and helped me in this desperate moment.

I arrived at the runway at its midpoint so I turned right to back taxi to the approach end of Runway 27L. As I taxied east, I examined the runway and was fearful of being shot at by the approaching enemy, and was somewhat relieved to see only light debris on the runway. I was unaware of anyone shooting at my Skyraider as I began my 180-degree turn 1,000 feet from the beginning of RW 27L. I did not want to be in range of anyone who could shoot at me from outside the base perimeter at that end of the airfield.

As I smoothly advanced the throttle and released the brakes of my heavy A-1E Skyraider, I knew the fate of all 15 of us in this A-1 were in the hands of God. As the speed built, I noticed a jeep parked on the left half of the runway so I added right rudder to move to the right and cleared this obstacle by a mere few feet. As I raised the tail wheel off the runway, I then spotted a large crane parked at the departure end of the runway and hoped I had enough altitude to clear it. As the main gear lifted off the runway, I quickly raised the gear handle and increased my rate of climb in hopes that I could clear the 50 feet tower from the crane. I eased in some right rudder to get some lateral separation from the crane. At the same time I rolled slightly right, lifting my left wing clearing the crane by a narrow margin. It had been a takeoff full of risk, but well worth it, since the risk of capture and being handcuffed by the invaders was much worse.

My takeoff at about 11:00 am on 29 April 1975 was perhaps the last A-1 to have left Tan Son Nhut Airbase. After passing the crane at the departure end of the runway, I made a left turn to the east to pass over Saigon and avoid the advancing enemy forces with their SA-7 missiles to the west and set my course toward Can Tho and Binh Thuy AB. I took several slow deep breaths to relieve my tension and contacted Binh Thuy AB for landing instructions. My request to land was rejected with no reason given. [Years later in America, I found out the reason we were denied landing clearance. Skyraiders from both the 514th and 518th FS were already at the field and the base leadership did not want additional aircraft at their base.] I was directed to find a different airfield for landing. I did not question the instructions and informed the passengers in the Blue Room of the situation. I was hoping someone on board might have knowledge of the area and would know of a place to land. Fortunately, there were some C-47 pilots on board who knew of a small airfield called An Thoi airport on Phu Quoc Island off the coast that could serve as a place for us to land. It had a short runway equipped with pierced steel planking (PSP) that would be suitable for our landing.

Arrival at An Thoi Airport

Just then, I received a hand written note from someone in the Blue Room that said we should go directly to U Tapao AB in Thailand. My first thought was that I was being hijacked as several of my passengers in the Blue Room had weapons. I did not head toward U Tapao AB since I did not have enough fuel on board for that distance. I jettisoned all six of my bombs over the ocean and descended toward An Thoi airport. I flew over the airport to check the condition of the runway prior to landing. Since it was an uncontrolled airport without radios, I began my approach as I watched two Cessna U-17 aircraft takeoff from the runway. I touched down at about 12:45 pm, then taxied to the parking area and shutdown my A-1E. My passengers collected money to give to the driver of the fuel truck as a gift. We met with the air liaison officer (ALO) in his office at the airport who did not welcome us. He apparently had many aircraft using that airport just as we had done.

We returned to the Skyraider on the parking ramp and some of my passengers went into the nearby village to get food for us to eat under the shade of the Skryaider’s wings. About an hour later, six naval soldiers arrived and told us were not allowed to leave. I wondered whether the ALO and the Naval District Headquarters for this area had together come up with this decision. We remained near the aircraft until evening when we hiked down the trail to the small town to find dinner. I noted with interest that the local villagers behaved calmly as if nothing unusual was happening. The sunset was beautiful on this idyllic island off the coast. This area had not experienced any war and Phu Quoc was a sheltering haven from the horrors we had experienced on the mainland of South Vietnam. I soon returned to reality and felt sorry and sad for my family… my pregnant wife, my one-year-old son, and my lonely elderly mother… I was sad for the long war in my homeland brought about by the superpower countries of the world. 

I was fearful of the takeoff in my Skyraider on this short PSP covered runway. Even though were prohibited from leaving, I wanted to be sure we were ready once we were given approval to takeoff. I asked my passengers if they wanted to leave that evening on Vietnamese naval ships who would carry them to a waiting American warship off the coast. I also asked Sgt Loi to remove all the 20mm ammunition from the A-1 to lighten our load. As night fell slowly, I laid down under the wing of my A-1 wondering what the next day would bring. I had experienced a very trying day and it felt good to finally rest. Despite my worries about my family and our upcoming departure, I soon was asleep.

My Flight to Freedom from South Vietnam

In the gathering light of the next morning, I awoke to the sound of waves along the beach and a beautiful sunrise over the South China Sea. I made my preflight inspection of the Skyraider including starting the engine and checking all the gauges to make sure all systems were operational. I then shutdown the engine and awaited permission to depart. One of the navy soldiers had a portable radio and at 10:15 am on 30.4.1975 we listened to the new president of South Vietnam, Doung Van Minh speaking on the radio. He called for all soldiers to return to their jobs and their bases. I was shocked at how naïve this man was. He was calling for full surrender to the invading communist forces! At this time, I felt more frightened and unsure of my future than ever before. None of us wanted to stay on this island so we decided to disregard the president’s order and leave the island immediately and put our fate into God’s hands.

Our decision proved to be the right one as many years later, we learned of the capture and savage imprisonment of thousands of South Vietnamese civilians and military personnel. The people were placed in “reeducation camps” that were actually prisons with inadequate food and poor living conditions where many prisoners died. More than one in five, or 165,000 South Vietnamese lost their lives in these camps. And of course, those who survived were forever changed.

I decided we had to leave South Vietnam immediately. I was worried about damaging the tail wheel when taxiing on the PSP surface, so I directed all 14 of my passengers to walk to the north end of the runway where they would climb into the Blue Room of my Skyraider. I checked the runway surface as I taxied on the runway to the north end. I had to stop before the end of the runway to allow cows to cross over the runway. Once they were clear, I added power and moved to the end of the runway where I made a 180° turn and then stopped to allow the passengers to climb on board. I had never taken off in an A-1 on such a short runway, but I followed the short field takeoff procedure. I lowered the flaps to full down position, held the brakes and slowly added full power as I released the brakes. I raised the tail wheel and lifted off with about 1,000 feet of runway remaining at about 90 knots. Once airborne, I raised the gear, then slowly raised the flaps. I knew we had narrowly escaped capture from the communists and a sudden wave of relief came over me. I set course for U Tapao AB in Thailand which was just more than a three hour flight for the 600 nautical mile flight.

The reassuring sound of the R-3350 engine of the Skyraider was reassuring as we left South Vietnam, then flew along the coast of Cambodia toward U Tapao and safety. We cried like babies as the realization set in that we were leaving our homeland, never to return. We were the soldiers who did not fulfill our duty or the wishes of the South Vietnamese people in this ruined, idealogic war. We were the beloved children who did not fulfill their duty for the Vietnam Mother’s wished.

I concentrated on my task of safely flying this aircraft to freedom and after three hours and 15 minutes, we landed safely, though the tail wheel had flattened during our departure from An Thoi airport.

Editor: Byron Hukee





Tập truyện
Hồi Ký Chiến Trường
Phi Công Quan Sát L-19 và Khu Trục A-1 VNCH
Tác giả giữ bản quyền © copyright 2017
All rights reserved





Li Cm T

Tác giả chân thành cám ơn văn thi sĩ Hàn Phú, đồng ngũ khóa 64 KQ, góp ý và nhận định sách: 

“Những truyện ngắn tác giả viết khá lôi cuốn, một phần cũng vì tính cách rất thật của nội dung những cốt truyện. Thêm vào đó, tác giả tỏ ra khiêm tốn, chân thật, không khoe khoang. Giọng văn từ tốn, đơn giản và bình dân”

Tác giả cám ơn Gucci và Nguyễn T Trung cho dùng tranh vẽ để thực hiện bìa sách. Cám ơn CoHuong đã tặng tranh A-1E bay trên phi trường Phú Quốc. Cám ơn Phạm Quang Khiêm với hình phi cơ A-1. Cám ơn biên tập viên Anh ngữ (Editors) Trần Phiếm, Nguyễn Tường và Byron Hukee.  Tài liệu trong trận An Lộc với sự đóng góp từ các cựu Phượng Hoàng: Trần Văn Mười, Nguyễn Thế Qui, Phạm Văn Huệ; cựu Phi Long: Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Văn Chín; cựu Thần Ưng Nguyễn Đình Lộc và cựu Hắc Long Trần Văn Tám. Tác giả chân thành cám ơn.


Tác giả
Phi Long 31




Tài liệu tham khảo:
-The Easter Offensive of 1972 by Lt. General Ngô Quang Trưởng.
-Không Lực Việt Nam Cộng Hòa
-Wikipidia.org, vnafmamn.com, Google.com
-Maps of South Vietnam 1965-1975
-Generalhieu.com




Bảng Chú Giải   (Glossary)

AAA :  An-ti Aircraft Artillery (súng phòng không)
A-1H, AD-6:  Phi cơ khu trục Skyraider có một chỗ ngồi lái trong phòng lái.
A-1E, AD-5: Phi cơ khu trục Skyraider có hai chỗ ngồi lái ngang kề nhau trong phòng lái và phía sau phi công có một phòng rộng khoảng 4ft x 5ft x 3ft.
APU:  Auxiliary Power Unit. Máy phát điện phụ, di động, dùng mở máy phi cơ thay vì dùng bình điện của phi cơ.
ARVN:  Army of Republic of Viet Nam, Quân đội VNCH.
BTLKQ:  Bộ Tư lệnh Không Quân ở Tân Sơn Nhứt.
CBU-55A/B:  Nặng từ 500 đến 2.000 cân cấu tạo bởi khí propane và ít hoá chất khác. Khi nổ bom sẽ hút hét dưỡng khí trong một vùng rộng và đốt cháy với nhiệt độ gây tàn phá. Dưỡng khí trong sinh vật bị lấy ra hết. Bom mẹ nổ cho ra 3 bom con (BLU-73A/B), mỗi bom con có 1 dù và rơi chậm. Vùng tàn phá rộng 60 m x 180 m. CBU-55 A/B đặt ở cánh trong A-1. Bắt đầu sử dụng năm 1972 ở VN. Bom chỉ để phòng thủ hay phá chốt địch.
Check out: xác định khả năng bay huấn luyện hay hành quân
Crash:  Tai nạn phi cơ xảy ra trên đất hay trên nước vì lý do kỹ thuật hay người lái.
CSBV:  Cộng Sản Bắc Việt
DMZ:  Demilitarized Zone. Vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17.
FAC:  Air Forward control. Phần việc do phi cơ L-19 hướng dẫn phi cơ khu trục thả bom, khi quân bạn và địch gần nhau, không phương hại quân bạn, còn gọi là yểm trợ tiếp cận (Close Air Support, CAS)
FM/PRC-25: Máy vô tuyến hành quân giữa Bộ binh với Bộ binh và Không quân
Gravity force (G. force):  Lực hướng tâm. Khi kéo cần lái lấy cao độ là làm tăng G như trong Roller Coaster khi bắt đầu đi lên từ điểm thấp. G tăng theo lực kéo. Phi công ngồi trên ghế lúc bay bình phi hay người đứng trên mặt đất là 1 G. Khi chúi xuống thả bom rồi kéo mạnh cần lái để lấy lại cao độ, G tăng từ 1 đến 5, 6… có nghĩa trọng lượng phi công giờ là 5, 6… lần lên ghế, do đó máu di chuyển từ trên đầu xuống chân và làm cho đôi mắt chỉ thấy màu đen gọi là Blackout trong 1 hay 2 giây đồng hồ. Blackout lâu có thể đi đến bất tỉnh và chết.
HQCC:  Hành Quân Chiến Cuộc. Đơn vị điều hành phi cơ bay hành quân trong Không đoàn.
KLVNCH:  Không Lực Việt Nam Cộng Hoà
Knot:  speed (tốc độ), 1knot = 1.151 miles/hour
L-19, O-1, Bird Dog:  Phi cơ Quan sát, hai người lái, một ở trước và hai ở sau.
LBU-82:  Còn gọi là Daisy Cutter nặng 15.000 cân (6.800 Kilo) là loại bom cổ điễn, cấu tạo hợp chất Ammonium Nitate và Alumium, khác với CBU, có người nhầm lẫn là CBU. Bom nổ cách mặt đất 38 in và không đào thành lỗ, dùng làm bãi đáp trực thăng với đường bán kính 1.500 m (5.000 ft).  Chỉ có C-130 thả 2 trái bom loại nầy trong trận Xuân Lộc vào ngày 15-4-1975 loại khỏi vòng chiến 2 sư đoàn CS (theo Tướng Lê Minh Đão), hay 10.000 quân (theo tài liệu “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975).
Mk 81:  Mark 81.  Loại bom nổ tung mảnh 250 cân chế tạo 1950 và là lần đầu sử dụng ở VN.
Mk 82:  Mark 82.  Như Mk81 nặng 500 cân.
Napalm:  Hổn hợp hóa chất dẻo, dầu, xăng nặng 500 cân, thường gọi là bom xăng đặc. Bom lửa đốt cháy mục tiêu và được chế tạo vào năm 1942.
NVA:  North Vietnamese Army.  Bộ binh Bắc Việt
Phi tuần trưởng:  Lead element.  Phi công khu trục dẫn phi tuần từ bốn phi cơ trở lên.
Phi tuần phó:  Lead.  Phi công khu trục dẫn phi tuần từ hai đến ba phi cơ.
Phi tuần viên:  Wingman.  Phi công khu trục bay chiếc số hai trong phi tuần hai phi cơ, Phi tuần viên nhận chỉ thị từ Phi tuần phó.
PSP:  Pierced Steel Plank.  Phi đạo tạm thời ngắn và hẹp vào khoảng 4.000 bộ làm bằng thép do Bộ binh Mỹ thực hiện, thường không có đài kiểm soát.
SA-7:  Hỏa tiển cầm tay, tầm nhiệt hướng theo sức nóng phát ra từ phi cơ.
T Đ/T Đ: Tiểu đoàn/Trung đoàn
T Đ/S Đ:  Trung đoàn /S ư đoàn
U-Tapao:  Căn cứ KQ Mỹ ở Đông Thái Lan.
VC:  Việt cộng.   Communist insurgent in South Vietnam.
Vertigo:   Cảm giác sai về vị trí, sự vận chuyển hoặc vị thế của phi cơ hoặc chính phi công với hệ thống hổn hợp cố định do bởi mặt đất và lực huớng tâm. Để tránh Vertigo phi công phải tin triệt để và bay với đồng hồ dùng cho bay phi cụ. Vertigo chỉ xảy ra khi bay trong đêm tối, trong mây hay mưa khi phi công không thể thấy trăng sao, mặt đất hoặc đường chân trời.


Tác giả

Khóa 64D

Đơn vị Huấn luyện:
-Căn bản quân sự và Anh ngữ ở Nha Trang (10/1964 - 8/1965)
-Anh ngữ ở Lackland AFB, San Antonio, Texas (8/1965 - 1/1966)
-T-34 và T-28D ở Naval Air Station, Pensacola, Florida (2/1966 - 12/1966)
-T-28A ở Keesler AFB, Mississippi (1/1967 - 5/1967)
-AD-5 (A-1E) Skyraider ở Eglin AFB, Florida (6/1967- 10/1967)

Đơn vị phục vụ:
-PĐ Khu trục 524 ở Nha Trang (11/1967 - 12/1967)
-PĐ Quan sát 114 ở Nha Trang (1/1968 - 6/1970)
-PĐ Khu trục 518 ở Biên Hòa (6/1970 - 30/04/1975)

Chức vụ cuối cùng:
-Thiếu tá Phi đội trưởng Phi đội 3 với danh hiệu Phi Long 31
-Tổng số giờ bay là 4.300 giờ



HẾT